Monday, 18 April 2016

Chánh niệm trong từng khoảnh khắc



Chúng ta thường nói cơn sân của người khác là “họ sân” và cơn sân của mình là “tôi sân”. Đó là thái độ sai. Hành thiền để hiểu về bản chất thật sự của các phiền não này, chúng ta không thể học hỏi được khi coi các phiền não này là của mình.

Sân và tham có bản chất riêng của chúng, sân thì thô tháo và có bản chất phá hủy. Mặt khác, tham có bản chất dính mắc và nắm giữ, cái tham thì không muốn buông bỏ.

Bản chất của tâm là phải có cả kinh nghiệm tốt và kinh nghiệm xấu trong lúc hành thiền. Khi có thái độ và ý tưởng sai lầm thì tham hay sân sinh khởi, khi có thái độ chân chánh trí tuệ sinh khởi. Các khó khăn chúng ta gặp phải là do không có thông tin đúng đắn trong việc quan sát và không có sự hiểu biết về bản chất của tâm. Thật khó khăn để thực hành mà không có sự hiểu biết thấu đáo về cách thực hành. Khi có sự hiểu biết thực sự mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp.

CỐ GẮNG BỀN BỈ

Muốn có được chánh niệm tự nhiên, thì cần phải có sự cố gắng bền bỉ trong từng khoảnh khắc.

Chúng ta không làm được điều này là do sự cố gắng miễn cưỡng, nó làm tiêu tốn nhiều năng lượng cùng một lúc và chỉ giãn ra khi chúng ta trở nên mệt mỏi. Khi năng lượng phục hồi chúng ta sẽ trở nên tỉnh táo và bắt đầu hay biết trở lại. Không thể phát triển được chánh niệm một cách liên tục nếu cứ làm theo cách ngẫu nhiên nảy.

Hãy phát triển chánh niệm một cách liên tục. Khi có chánh niệm một cách liên tục, tâm có thể liên tục quan sát toàn bộ tiến trình để thấy cái gì tới trước đó, cái gì xảy ra sau đó mà không cần phải ép buộc, tâm sẽ nhận ra được mối quan hệ giữa nhân và quả. Chỉ còn công việc là hay biết cái đang xảy ra và cái xảy ra tiếp theo. Chỉ có công việc duy nhất này mà thôi, không có công việc nào khác nữa.

Với sự cố gắng bền bỉ chúng ta sẽ phát triển được khả năng chịu đựng và sự tin tưởng vào bản thân. Hãy thử làm xem sao nếu quí vị chưa tin điều này. Chúng ta sẽ thấy hạnh phúc khi có thể hiểu về bản thân mình. Hạnh phúc này xuất phát từ đâu? Hạnh phúc này là do có sự hiểu biết.

CHÁNH NIỆM CÓ ĐÀ

Khi chánh niệm và sức định yếu thì phiền não rất mạnh trong tâm, chúng ta không thể quan sát được thực tại cho dù cố gắng bao nhiêu đi chăng nữa. Không có chánh niệm một cách liên tục thì tâm quan sát một sự việc nó bỏ lỡ và nó quan sát lại một lần nữa. Liệu chúng ta có thể hiểu toàn bộ nội dung nếu chúng ta bỏ lỡ một số cảnh trong một cuốn phim? Sự không liên tục này sẽ là khó khăn để nắm bắt toàn bộ bức tranh và trí tuệ không có cơ hội phát triển. Đó là lý do vì sao tôi nhấn mạnh là phải duy trì chánh niệm một cách liên tục. Chúng ta chỉ cố gắng hay biết một cách liên tục để tạo đà cho chánh niệm. Khi chánh niệm có sức mạnh, tâm sẽ hay biết được nhiều đối tượng và chánh niệm sẽ tạo được đà cho chính nó. Chúng ta không làm công việc hay biết càng nhiều càng tốt.

GIÁ TRỊ CỦA CHÁNH NIỆM

Khi mới hành thiền chánh niệm, định và tuệ chưa có, chúng chỉ có mặt sau một thời gian thực tập. Hãy đánh giá cao về sự có mặt về các phẩm chất thiện tâm này. Giá trị của chánh niệm là gì? Chánh niệm loại bỏ cái gì? Chánh niệm loại bỏ và thay thế sự thất niệm.

Chúng ta muốn ghi nhận phiền não sinh khởi như là một hiện tượng tự nhiên. Cái thiện sinh khởi cũng là Pháp mà bất thiện sinh khởi cũng là Pháp.

Chúng ta thực hành là để có thái độ chân chánh, hiểu về bản chất của các hiện tượng tự nhiên (Pháp) và để tận diệt các phiền não.











CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM

Những điểm dưới đây được rút ra từ các buổi trình pháp của thiền sinh. Một số mới bắt đầu hành thiền, một số đã là những thiền sinh dầy dạn kinh nghiệm. Tuỳ thuộc vào trình độ thiền tập của mình mà bạn có thể hiểu hoặc chưa hiểu được một số điểm trong đó. Đừng băn khoăn về những điểm bạn chưa hiểu được. Hãy bỏ qua chúng. Theo thời gian, khi pháp hành của bạn tiến triển, ý nghĩa của chúng sẽ trở nên rõ ràng và bạn sẽ hiểu chúng ở một tầm mức sâu sắc hơn. Khi thiền tập của bạn đã thực sự tiến bộ, cuối cùng bạn sẽ hiểu được tất cả. Những điểm này không được sắp xếp theo một thứ tự nhất định nào cả, do đó chỉ cần đọc từng chút một, mỗi khi bạn cần có một vài ý tưởng hay một sự khích lệ, sách tấn nào đó cho mình.

1. Thiền không chỉ là ngồi yên trên một tấm toạ cụ. Bất cứ ở tư thế nào, nếu tâm bạn đang hay biết với trí tuệ, thì đó chính là lúc bạn đang hành thiền.

2. Nếu bạn không thể quan sát được nữa, thì đừng tự ép buộc mình phải làm điều đó. Mà trước tiên, hãy học cách thư giãn, buông xả , làm sao cho mình được thoả mái đã.

3. Lúc nào đó thuận tiện, hãy thử tập hành thiền trong tư thế nằm một chút. Bạn cần học cách giữ chánh niệm trong bất cứ tư thế nào. Luôn luôn hay biết đề mục của mình và nhận biết rõ mức tinh tấn cần thiết để giữ chánh niệm trong các tư thế khác nhau.

4. Chánh tinh tấn nghĩa là sự bền bỉ, kiên nhẫn, đều đặn thực hành. Chánh tinh tấn không có nghĩa là phải chú tâm thật quyết liệt, cố gắng kiểm soát, cưỡng ép hay tự gò bó, hạn chế mình. Chú tâm quá mức xuất phát từ tham, sân và sự thiếu hiểu biết về phương pháp thực hành.

5. Bạn có thể chánh niệm về các cảm giác trên thân, hoặc các cảm xúc, tình cảm hoặc các hoạt động của tâm thức. Nhưng đừng nghĩ chúng là "của tôi"; chúng chỉ như chúng đang là: cảm giác chỉ là cảm giác, tình cảm chỉ là tình cảm, hoạt động của tâm chỉ là hoạt động của tâm - đó là bản chất đích thực của chúng. Luôn luôn quan sát với cái nhìn như vậy, nếu không làm như thế, nếu còn coi chúng là "của tôi", thì bạn sẽ không sao tránh khỏi việc bị dính mắc vào đối tượng hoặc là chối bỏ nó.

6. Học cách quan sát, thẩm nghiệm và hiểu biết về bản chất của đối tuợng còn quan trọng hơn là thấy cho được sự diệt hay cố gắng làm cho đối tượng diệt mất. Muốn thấy đối tượng diệt mất, đó là một thái độ hành thiền sai lầm.

7. Khi tâm quan sát không có phiền não, đó là lúc bạn có Chánh niệm.

8. Tâm hay biết (viññana-thức) là tâm nhận biết bất cứ cái gì đến qua các căn môn. Nó luôn luôn hiện hữu, nhưng không nhận thức hay diễn dịch; nó không có trí tuệ, không hiểu biết được những gì đang diễn ra. Tâm hay biết chỉ đơn giản tiếp nhận đối tượng mà thôi.

 9. Tâm quan sát hay tâm theo dõi, quan sát bất cứ điều gì bạn kinh nghiệm. Khi bạn ý thức được là mình đang quan sát, thì bạn cũng hay biết được chính tâm quan sát đó.


10. Bạn chỉ có thể biết được tâm mình thông qua các biểu hiện hoạt động của tâm thức, các trạng thái tình cảm-cảm xúc hay nội dung của đối tượng hay biết. Mỗi khi bạn hay biết được sự suy nghĩ  hoặc ý thức được mình đang có tâm sân, thất vọng-buồn bực, tham muốn…đó là lúc bạn chánh niệm, biết được tâm mình. Bạn phải nhận ra được chính tâm đang làm hay đang cảm nhận tất cả những điều đó.

11. Khi bạn can thiệp vào tâm quan sát thì tuệ giác sẽ không thể sanh khởi. Hãy học cách quan sát một cách khách quan, với một sự chú ý thuần tuý.

12. Khi theo dõi tâm mình, bạn sẽ cảm thấy ngạc nhiên, kinh ngạc hay thậm chí còn bị sốc khi phát hiện ra những định kiến, những tham muốn, sợ hãi, hy vọng và mong đợi, trông chờ mà trước nay mình không hề ý thức được về chúng.

13. Tất cả các hoạt động bên ngoài (đọc sách, nghe nhạc, chơi thể thao…) đều có liên quan đến suy nghĩ và tưởng (quá trình khái niệm hoá hay chế định hoá). Không có nó thì những tác nhân kích thích bên ngoài sẽ trở thành vô nghĩa. Song nếu những suy nghĩ khái niệm xuất hiện trong khi hành thiền, thì bạn chỉ cần đơn giản hay biết rằng: đó là "tâm đang suy nghĩ".

14. Khi bạn có thể dễ dàng an trụ tâm trên đề mục, thì đó là do một trong hai nguyên nhân sau: hoặc là do đề mục (đối tượng) quá thô-rõ, hoặc là do chánh niệm của bạn mạnh. Chớ dừng lại ở việc quan sát các đề mục thô-rõ mà thôi. Khi bạn học cách quan sát những đề mục vi tế, nhỏ nhiệm, chánh niệm của bạn sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.

15. Khi bạn không thích một ai đó, thì sự việc đó đã trở thành một dấu ấn in đậm trong tâm bạn. Dấu ấn này khiến bạn nhìn nhận người đó theo một định kiến có sẵn; nó ngăn che không cho bạn thấy người đó như thực sự anh ta đang là. Đó chính là vô minh đang vận hành.

16. Khi tâm bạn đã sẵn sàng, đủ điều kiện cho tuệ giác sanh khởi, nó sẽ phát sanh một cách tự nhiên và ngay tức khắc. Đừng hy vọng, trông ngóng nó sẽ đến. Trông ngóng và tìm kiếm sẽ chỉ mang lại loại tuệ giác giả mạo do tâm mình tự tạo ra mà thôi.

17. Luôn giữ một cái tâm rộng mở đối với bất cứ điều gì bạn kinh nghiệm được. Đừng vội vàng kết luận bất cứ điều gì cả. Chỉ đơn giản tiếp tục quan sát và thẩm nghiệm, xem xét kinh nghiệm của mình một cách kỹ lưỡng và liên tục. Kết luận vội vàng sẽ ngăn che, không cho bạn làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của mình.

18. Nếu cứ tránh né những hoàn cảnh khó khăn thì bạn sẽ không thể học hỏi và trưởng thành được. Điều này đặc biệt đúng khi bạn đối diện với phiền não. Học cách đối diện với phiền não sẽ giúp bạn thẩm nghiệm và thấu hiểu được bản chất của chúng và vượt qua chúng.

19. Hãy học cách tạo hứng thú cho mình trong những hoàn cảnh khó khăn. Bằng cách đối diện với chúng một cách nhẹ nhàng, mềm mỏng, rồi một lúc nào đó bạn sẽ chợt thấu hiểu được nguyên nhân của những khó khăn đó.

20. Không nhất thiết phải xác định hay phân loại các cảm thọ thành các loại thọ lạc (dễ chịu), thọ khổ (khó chịu) hay thọ xả (không khổ không lạc). Hãy tự nhắc nhở mình rằng cảm thọ chỉ là cảm thọ. Và đơn giản chấp nhận như nó đang là.

21. Khi xem một bộ phim, mỗi khán giả hiểu một cách khác nhau, xuất phát từ cách nhìn nhận của mỗi cá nhân. Người nào tâm còn non nớt, ấu trĩ thì coi việc xem phim chỉ là để giải trí. Người trưởng thành hơn sẽ cố gắng để hiểu ý nghĩa bộ phim muốn nói lên điều gì. Trong thiền tập cũng vậy, bạn phải luôn cố gắng để hiểu được những gì đang diễn ra.

22. Càng tập trung hay chú tâm sâu vào một đề mục, bạn càng hao tốn nhiều năng lượng và sức lực. Điều đó làm cho sự thực hành của bạn trở nên khó khăn và mệt mỏi. Chánh niệm trên thực tế sẽ trở nên lỏng lẻo, trì trệ. Khi chợt nhận ra điều đó, bạn lại cố gắng thật quyết liệt để xây dựng lại mức chánh niệm cũ. Điều đó có nghĩa là bạn sẽ phải tốn thêm nhiều năng lượng hơn nữa, và hiệu ứng quả cầu tuyết  này sẽ đốt  cháy bạn trong suốt quá trình thiền tập dài hạn.

23. Khi bạn cố gắng quá sức để chánh niệm, bạn sẽ nhanh chóng tiêu phí năng lượng và do đó sẽ không thể duy trì chánh niệm suốt cả ngày được. Nếu bạn thực hành một cách thư giãn, thoải mái, bạn sẽ bảo tồn được năng lượng và có thể thực hành được trong một thời gian dài. Nếu là một thiền sinh dài hạn thì bạn không thể phung phí năng lượng như thế. Thiền là công việc của cả một đời người; nó là một cuộc đua đường trường marathon chứ không phải là cuộc chạy đua cự ly 100m.


24. Hãy coi mỗi giây phút và từng giây phút như là những cơ hội quý giá để phát triển chánh niệm, song cũng không nên quá quan trọng hoá và thực hành quá nghiêm ngặt. Nghiêm túc quá mức sẽ làm bạn căng thẳng và không còn tự nhiên được nữa.

25. Nếu biết cách thư giãn, bạn sẽ trở nên rất nhạy cảm và biết rõ mình cần cái gì. Bạn sẽ nhận biết được ngay mỗi khi mình tiêu phí năng lượng một cách không cần thiết; và bạn cũng sẽ học được cách bảo tồn năng lượng và sức lực của mình.

26. Khi được nghe hay đọc về kinh nghiệm thiền tập của người khác, có thể, một cách chủ tâm hay vô thức, bạn sẽ mong muốn tìm kiếm cho được những kinh nghiệm như thế. Thế rồi, khi có được một kinh nghiệm nào đó tương tự, bạn sẽ vội vàng cho rằng đó chính là tuệ giác. Nhưng thực ra, bạn chỉ có được một kinh nghiệm tương tự như vậy mà thôi. Còn tuệ giác đích thực chính là sự hiểu biết thực sự về chân lý.

27. Phóng tâm là một hoạt động tự nhiên của tâm. Nếu cứ cố xua đuổi nó, tức là chúng ta không chịu chấp nhận sự tự nhiên. Khi chấp nhận được nó, tức là có thái độ đúng đắn, thì việc quan sát tâm phóng tâm sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Lúc đầu, có thể bạn sẽ thường bị lôi theo dòng suy nghĩ, nhưng cũng không sao. Qua thời gian và với công phu thực hành, bạn sẽ bắt đầu quan sát được sự phóng tâm chỉ như là "các suy nghĩ" và sẽ ít bị lôi theo hơn.

28. Không kháng cự, chống đối, không mong đợi, trông ngóng điều gì - hãy chấp nhận mọi sự như chúng đang là.


29. Phóng tâm không thành vấn đề; mà chính thái độ cho rằng không nên có phóng tâm mới là vấn đề cần phải giải quyết. Đối tượng hoặc đề mục không quan trọng; cách bạn nhìn nhận hoặc quan sát đề mục đó mới  thực sự là quan trọng.

30. Đối tượng quan sát hay nơi bạn quan sát không quan trọng; tâm chánh niệm, hay biết mới là quan trọng.

31. Khoảnh khắc nào cũng đều là khoảnh khắc thích hợp để hành thiền.

32. Mục đích của thiền Samatha (thiền chỉ) là để đạt đến một trạng thái tâm nhất định nào đó, trong khi thiền Vipassanā (thiền minh sát)Ilà một quá trình học hỏi và hiểu biết.


33. Thiền chánh niệm có thể được so sánh như xem một bộ phim. Bạn chỉ cần ngồi ngả ra sau, thư giãn thoả mái và xem phim. Câu chuyện bạn đang theo dõi sẽ mở dần ra một cách tự nhiên - và mức độ bạn học hỏi được bao nhiêu sẽ phụ thuộc vào mức độ hiểu biết của chính bạn.

34. Nếu không có thái độ đúng đắn thì dù cách này hay cách khác, tâm bạn cũng sẽ bị phiền não, nhiễm ô.

35. Tuệ giác tự nó thì chẳng có gì là quan trọng; điều quan trọng thực sự là tuệ giác đó có đem lại sự chuyển hoá trong tâm bạn hay không, để có thể giúp bạn xử lý những tình huống tương tự trong tương lai mà không bị phiền não chi phối.

36. Khi tâm có phiền não, bạn phải nhận biết rõ sự có mặt của chúng. Nhưng điều quan trọng khác là cũng phải biết khi tâm mình không còn phiền não.

37. Sự hiểu biết không phải chỉ theo một chiều nhất định. Bạn có thể hiểu sự việc theo những cách khác nhau, ở những tầng mức khác nhau và từ những góc độ khác nhau.

38. Trí tuệ thiên về thiện, nhưng không bị dính mắc vào thiện. Nó xa lánh bất thiện, nhưng không chống đối và chối bỏ. Trí tuệ nhận biết sự khác nhau giữa điều thiện, điều lợi ích với những gì vô ích và bất thiện, và thấy rõ những điều vô ích và bất thiện đó là không đáng mong cầu.

39. Vô minh có thể làm cho bạn thấy mọi thứ đảo điên-điên đảo; thấy sai thành đúng, và đúng lại thành sai.

40. Thông thường, tránh né hoặc chạy trốn khó khăn không cần nhiều nỗ lực và sự khéo léo lắm. Nhưng làm vậy bạn sẽ không kiểm tra được những giới hạn của mình và trưởng thành lên. Khả năng ứng phó với khó khăn là điều tối cần thiết đối với sự trưởng thành của chúng ta. Tuy nhiên, trong một tình huống có quá nhiều khó khăn áp đảo, thì trước mắt bạn nên lùi lại một chút và chờ đợi cho đến khi tích luỹ đủ sức mạnh để ứng phó với nó một cách thuần thục và khéo léo.

41. Mục đích của sự tu tập là để phát triển trí tuệ. Trí tuệ chỉ có thể phát triển được khi chúng ta nhận biết được phiền não, hiểu rõ phiền não và vượt qua được phiền não. Để kiểm tra thử giới hạn của mình và trưởng thành lên, bạn phải tự cho mình cơ hội đối diện với phiền não. Không đối mặt với những thử thách của cuộc đời, tâm bạn sẽ mãi mãi yếu hèn.

42. Phát triển chánh niệm là một hành trình cả cuộc đời. Không cần thiết phải vội vàng hay băn khoăn, lo lắng điều gì cả. Điều quan trọng là phải thực hành đúng cách, như vậy bất cứ điều gì bạn học hỏi được cũng đều hữu dụng trong cuộc sống hàng ngày, chứ không chỉ ở trong khuôn khổ của thiền viện.

43. Càng cố để thấy được điều gì đó, bạn sẽ càng không thể nhìn rõ được nó. Chỉ khi bạn thư giãn, thoải mái thì mới có thể thấy được mọi sự như chúng đang là. Người không cố tìm kiếm điều gì cả, sẽ thấy được nhiều hơn.

44. Chánh niệm mạnh không phải là một loại quyền năng. Chánh niệm mạnh khi phiền não không có mặt, khi bạn có thái độ đúng đắn.

45. Phải hay biết mình đang quan sát với thái độ như thế nào. Chỉ mỗi quan sát thôi thì không đủ.

46. Nếu cảm giác đau đớn bạn đang phải chịu đựng là do một chấn thương hoặc rối loạn nào đó trong cơ thể thì phải thận trọng, đừng để cho nó trở nên nặng hơn.

47. Có những lúc, khi mọi việc trở nên khó khăn, tâm rất miễn cưỡng quan sát và hành thiền. Tuỳ thuộc vào khả năng và trạng thái tâm của bạn lúc đó mà bạn có thể hoặc là tiếp tục thực hành hoặc là dừng lại và nghỉ ngơi một cách chánh niệm.

48. Trong cuộc sống, bạn cần phải học cách không mong đợi bất cứ sự đền đáp nào đối với những điều mình đã làm cho người khác. Với chánh niệm cũng vậy, bạn cần phải học cách không mong đợi bất cứ kết quả hay kinh nghiệm tốt đẹp nào đến với mình.

49. Điều quan trọng hàng đầu là phải nhận diện được thói ngã mạn của mình để làm suy yếu, không cho nó lớn mạnh lên. Trí tuệ chỉ có thể sanh khởi khi ngã mạn bị dẹp bỏ.

50. Nắm giữ, chấp thủ vào một định kiến có sẵn rằng tuệ giác thì phải như thế này thế nọ, đó là điều rất nguy hiểm, bởi vì nó sẽ làm ngã mạn tăng trưởng khi bạn có được một kinh nghiệm nào đó giống giống như cái mình nghĩ. Bản chất của chân lý là luôn nằm ngoài mọi quan điểm và tư tưởng. Quan điểm và tư tưởng chỉ là những sản phẩm của vô minh mà thôi.

51. Đừng bó hẹp, hạn chế sự thực hành của mình trong khuôn khổ của thiền viện; hãy áp dụng nó vào trong cuộc sống hàng ngày. Khi bạn rời thiền viện, hãy mang sự thực hành đi theo cùng với bạn.

52. Nếu tâm bạn thực sự vững vàng, mạnh mẽ, khi tiếp xúc với một đối tượng, nó sẽ không đánh giá, phán xét; mà sẽ thấu hiểu đối tượng như nó đang là.

53. Hãy cố gắng thường xuyên quan sát cách tâm mình xử lý một tình huống khó khăn như thế nào, quan sát từ càng nhiều góc độ khác nhau càng tốt. Một khi bạn đã hiểu được cách thức hoạt động của tâm, trí tuệ sẽ bắt đầu thực hiện công việc của nó một cách tự nhiên. Lần sau, nếu bạn đối mặt với một tình huống tương tự, trí tuệ sẽ ngăn không cho bạn phản ứng một cách dại dột nữa. Trí tuệ biết sẽ phải làm gì.

54. Khi mới bắt đầu quan sát suy nghĩ, bạn không thể nhận ra đó chính là tâm. Bạn chỉ hay biết được sự suy nghĩ và nội dung của suy nghĩ đó. Qua quá trình thực hành, bằng cách liên tục quan sát, bạn sẽ hiểu được rằng đó chính là tâm đang suy nghĩ. Rất khó diễn tả được điều này bằng ngôn từ. Nhưng một khi đã làm được, bạn sẽ quan sát được tâm mình một cách khách quan. Bạn chỉ cần nhận biết nó như là những suy nghĩ xuất hiện trong tâm mà thôi. Hãy học cách nhận diện suy nghĩ mỗi khi chúng khởi sanh. Đừng cố tránh né nó bằng cách khư khư giữ chặt chánh niệm trên thân mà thôi; làm vậy bạn sẽ mất cơ hội để hiểu được cách thức hoạt động thực sự của tâm mình như thế nào.

55. Khi chánh niệm của bạn mạnh và liên tục, một cách tự nhiên, bạn sẽ bắt đầu quan sát được các đối tượng vi tế. Khả năng chánh niệm trên những đề mục vi tế sẽ làm cho sức mạnh của chánh niệm tăng trưởng, do đó sẽ giúp bạn quan sát được những đề mục vi tế hơn nữa. Khả năng quan sát đề mục vi tế sẽ phát triển một cách dần dần; bạn không thể đạt được điều đó bằng cách tự ép buộc mình chánh niệm hay cố gắng hết sức để quan sát chúng.
(Chú ý: Chánh niệm mạnh được dùng để diễn đạt một trạng thái tâm trong đó có ngũ căn: Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ cân bằng với nhau; đó là một trạng thái tâm đạt được qua quá trình thực hành bền bỉ và liên tục).

56. Chánh niệm thì không khó. Cái khó là làm sao duy trì được chánh niệm một cách liên tục. Để đạt được điều này, bạn cần phải có chánh tinh tấn. Chánh tinh tấn  đơn giản chỉ là sự kiên trì thực hành đều đặn.

57. Thư giãn thoải mái và đặt tâm trong một khuôn khổ thích hợp là điều quan trọng hàng đầu. Mọi thứ còn lại sẽ đến sau. Nhận biết được mình có chú tâm một cách thích hợp hay không còn quan trọng hơn là có được những trạng thái an lạc hay một thời toạ thiền "tốt đẹp".

58. Nếu lần nào ngồi thiền bạn cũng buồn ngủ thì tức là bạn đang nuôi dưỡng một thói quen xấu. Vì vậy, mỗi khi bắt đầu thấy buồn ngủ thì hãy mở mắt ra. Nếu vẫn còn buồn ngủ nữa, hãy đứng dậy và đi kinh hành. Ngồi hay đi không thành vấn đề; điều quan trọng là tâm phải luôn luôn tỉnh thức.

59. Chánh tinh tấn là luôn tự nhắc nhở mình chánh niệm. Chánh tinh tấn không phải là dồn sức, gồng mình để tập trung sâu vào một đề mục.

60. Nếu bạn bị mệt mỏi vào buổi tối, cuối ngày hành thiền, thì có thể là trong ngày bạn đã tiêu tốn quá nhiều năng lượng. Đà quán tính của sự thực hành sẽ giúp bạn thấy càng lúc càng tươi tỉnh chứ không mệt mỏi, dã dượi như vậy. Vì vậy, đừng dùng sức quá mức để cố giữ chánh niệm; chỉ cần đơn giản tự nhắc mình chánh niệm là đủ.

61. Khi nhắm mắt hành thiền, bạn có cảm tưởng rằng suy nghĩ tự nhiên đến rất nhiều. Song thực ra tâm mình lúc nào cũng suy nghĩ như vậy cả. Bạn chỉ không nhận ra được điều đó, bởi vì khi mở mắt bạn chú ý đến các đối tượng bên ngoài nhiều hơn là đến các suy nghĩ trong tâm.

62. Để duy trì các kỹ năng đã đạt được, bạn cần phải tiếp tục thực hành, mài dũa chúng. Phải thực hành liên tục. Cố gắng thực hành ở bất cứ chỗ nào, với tất cả khả năng của mình. Hãy kiên trì, đều đặn và không để phí hoài những gì mình đã học hỏi được.

63. Nếu có chánh niệm, hãy hoan hỷ rằng mình đang có chánh niệm. Đó là thái độ đúng đắn. Do vậy, khi đối mặt với phiền não và có chánh niệm, bạn hãy hoan hỷ rằng mình đang có chánh niệm, hay biết nó, ngay cả khi nó vẫn không chịu biến mất. Chỉ cần có chánh niệm, nhận diện được phiền não là bạn đang thực hành rất tốt rồi đó.

64. Phiền não cũng là Pháp. Đừng chối bỏ hay xua đuổi nó. Có thiền sinh đã rất thất vọng khi thấy phiền não biến mất quá nhanh. Không phải bởi vì cô ấy muốn có phiền não, mà bởi vì cô muốn học hỏi và hiểu chúng hơn nữa. Đây chính là thái độ cần phải có khi đối diện với phiền não.

65. Hãy cố gắng nhận thức rõ: phiền não đơn giản chỉ là phiền não; chúng không phải là phiền não "của tôi". Mỗi khi bạn tự đồng hoá mình với chúng hay chối bỏ chúng, bạn chỉ càng làm tăng thêm sức mạnh cho chúng mà thôi.

66. Luôn ghi nhớ rằng không phải là bạn đoạn trừ phiền não mà chính là trí tuệ làm việc đó. Khi có chánh niệm miên mật, trí tuệ sẽ hiển bày một cách tự nhiên.

67. Khi có người lấy trộm đồ của bạn, đừng cố nói rằng mình chẳng quan tâm, rằng đó là một cách để bố thí cho người. Đó chỉ là một trò lừa đảo của tâm trí. Hãy nhận biết và chấp nhận sự bực bội của bạn đi! Chỉ khi bạn có thể quan sát sự tức giận một cách trực tiếp và thấu hiểu được nó, khi đó bạn mới có thể hoàn toàn dứt bỏ được.

68. Việc chứng nghiệm được một trạng thái yên tĩnh, vắng lặng không quan trọng. Điều quan trọng hơn là phải biết và hiểu được lý do tại sao có được trạng thái vắng lặng ấy sanh lên, và tại sao lúc khác nó lại không sanh.

69. Để thấy biết sự thật, bạn phải có can đảm. Muốn tìm đến sự thật, bạn phải bắt tay vào hành thiền, phải có chánh niệm, biết mình. Việc đầu tiên bạn phải nhận diện rõ ràng là những phiền não trong tâm mình. Đây là điều cơ bản. Tất cả chúng ta đều muốn là người tốt và do đó chúng ta thường có xu hướng chỉ thấy và chỉ thể hiện cho người khác thấy những mặt tốt của mình. Nếu không chịu đối diện với phiền não, rốt cuộc chúng ta sẽ chỉ tự "lừa dối" chính bản thân mình và người khác. Nếu muốn thay đổi thành người tốt, bạn phải thấy ra được những cái xấu của mình. Khi bạn thấy được mình một cách thực tế, nhận thức rõ cả mặt tốt lẫn thói xấu, đó là lúc bạn đang thực hành rất tốt.
70. Đức Phật không bảo chúng ta đừng suy nghĩ, nói năng hay hành động; mà Ngài dạy chúng ta phải nghĩ, phải nói, phải làm với trí tuệ, chứ không để bị phiền não giật dây, thao túng.

71. Khi nói chuyện, chúng ta thường có thói quen hướng tâm ra bên ngoài hoặc bị lôi theo câu chuyện và người mình đang nói chuyện. Hầu như trong mọi lúc, chúng ta thường quá quan tâm đến các cảm xúc, tình cảm của người khác. Hãy tự huấn luyện mình luôn nhìn vào bên trong; dần dần tự nhiên bạn sẽ làm việc đó ngày một khéo léo hơn. Cũng phải tập thói quen luôn hay biết thái độ của mình. Chỉ khi bạn không còn bị lôi cuốn theo các cảm xúc và tình cảm trong khi giao tiếp, thì trí tuệ mới sanh khởi. Bạn sẽ biết điểm dừng, biết nên chấm dứt câu chuyện ở đâu, biết điều gì nên nói và điều gì không nên nói, biết cách giao tiếp mà không bị lôi theo các cảm xúc và tình cảm.

72. Khi quan sát một đề mục nào đó, bạn nên kiểm tra lại chánh niệm của mình nhiều lần. Việc đó sẽ giúp bạn hay biết được tâm chánh niệm - hãy học cách quan sát chính tâm quan sát của mình.

73. Khi đã có được chút ít kinh nghiệm thiền tập, bạn sẽ bắt đầu cho rằng thế là mình đã hiểu về thiền. Nhưng một kết luận vội vàng như vậy sẽ chỉ làm cản trở, không cho bạn đào sâu, mài sắc thêm trí tuệ của mình mà thôi.

74. Khi kinh nghiệm thiền tập của bạn đã mở rộng và sâu sắc hơn, bạn sẽ có xu hướng kết luận về bản chất của kinh nghiệm mình đã có. Thậm chí bạn còn tự cho là mình đã hiểu được một chân lý cơ bản nào đó, như là vô thường chẳng hạn. Loại "giả tưởng", "cho là" này sẽ ngăn cản bạn nhìn sâu hơn nữa và sẽ làm chướng ngại cho sự tiến bộ của bạn.

75. Nếu bạn có thể nhận ra được những xung lực vi tế trong tâm, thì bạn cũng sẽ thấy ra được những động cơ vi tế đằng sau chúng và nhận ra rằng hầu hết những động cơ này đều là phiền não.

76. Đừng quyết định trước là mình sẽ ngồi thiền trong bao lâu; điều đó sẽ tạo ra một sự căng thẳng, một sức ép về thời gian đối với bạn. Đừng gò ép mình theo chương trình hành thiền của thiền viện một cách quá nghiêm túc. Chỉ cần đơn giản tự nhắc nhở mình duy trì chánh niệm liên tục trong mọi tư thế.

77. Khi ham tiến bộ, bạn sẽ không hoàn toàn chánh niệm được trong hiện tại. Đó là lý do tại sao việc thường xuyên kiểm tra lại thái độ hành thiền của mình là hết sức quan trọng. Một thiền sinh nói, anh nhận ra rằng chính sự hăng hái muốn áp dụng thái độ đúng đắn một cách liên tục của mình lại là một thái độ sai lầm.

78. Mỗi ý định (tác ý) đều đi kèm với một động cơ. Hầu hết các động cơ ấy chính là phiền não. Chỉ khi bạn hoàn toàn nhận rõ và thấu hiểu được phiền não thì trí tuệ mới sanh khởi. Bấy giờ, chính trí tuệ sẽ là động cơ làm sanh khởi tác ý của bạn.

79. Tác ý không chỉ diễn ra trước mỗi hành động hay mỗi động tác. Tác ý còn có trong suốt quá trình hành động, trong toàn bộ động tác đó. Thậm chí mỗi khoảnh khắc bạn ngồi cũng đều có sự tác ý. Đây là điều quan trọng cần phải nhớ.

80. Một khi đã thấy được sự nguy hiểm của các phiền não, bạn sẽ chỉ muốn giữ tâm mình luôn ở trong trạng thái tích cực, tỉnh thức nhất đến mức có thể.


81. Bản chất của tâm là luôn luôn tiếp xúc với đối tượng, do đó bạn không cần phải gia công đặc biệt cố gắng để thấy được nó. Chỉ cần hay biết những gì đang hiện hữu và không cố thấy cho được cái mà bạn cho là đối tượng (hoặc đề mục) đúng đắn cần phải thấy. Không cần thiết phải kiểm soát hay điều khiển kinh nghiệm của mình.
82. Khi bắt đầu hành thiền, người ta thường có xu hướng định sẵn trong đầu một trình tự, hay một đạo lộ thực hành nhất định nào đó. Thực ra không cần phải làm hay tạo ra một cái gì hết. Bạn chỉ cần phát triển chánh niệm liên tục, để quan sát và theo dõi. Thế là đủ. Bạn không thể bắt mọi việc phải diễn ra được, nhưng khi phát triển chánh niệm một cách đúng đắn thì mọi việc sẽ tự động diễn ra. Sự hiểu biết sanh lên cũng theo cách y như vậy, dù đó là những hiểu biết đơn giản hay sâu sắc, hay thậm chí ngay cả đạo quả cũng thế.
83. Bạn chỉ có thể gieo nhân chứ không thể tạo quả. Bạn không thể đạt được điều mình muốn chỉ bằng cách nhăm nhăm nghĩ đến nó. Không thể chỉ cố gắng tập trung mà đã phát triển được tâm định. Bạn cần phải biết cách phát triển định tâm như thế nào cho đúng. Khi chánh niệm được áp dụng liên tục cùng với thái độ đúng đắn thì định tâm sẽ tăng trưởng.
Thực ra cái bạn có thể làm được chỉ là tự nhắc nhở mình chánh niệm và kiểm tra lại xem mình có làm điều đó với thái độ đúng đắn hay không mà thôi. Nói cách khác, khi bạn có Chánh tinh tấn và Chánh niệm thì Chánh định sẽ đến một cách tự nhiên. Nếu hiểu được mối quan hệ nhân quả, bạn sẽ biết cách ứng phó với bất cứ hoàn cảnh nào. Luôn luôn tự hỏi xem mình đã hiểu được nhân duyên nào là cần thiết để đạt được kết quả mong muốn hay chưa. Rồi sau đó hãy bồi đắp cho các nhân duyên ấy trở nên đầy đủ, viên mãn. Bạn cần phải có chánh kiến đúng đắn như thế.

84. Chánh niệm là không quên hay biết đề mục đúng đắn, thích hợp; chánh tinh tấn là kiên trì, bền bỉ thực hành đều đặn; chánh định là sự tĩnh lặng, ổn định của tâm. Đề mục đúng đắn chính là điều bạn đang kinh nghiệm, như là cảm giác giận dữ chẳng hạn- chứ KHÔNG PHẢI là người mà bạn đang giận.

85. Đừng thực hành một cách quá nghiêm túc, hãy thực hành một cách bình lặng và trân trọng.

86. Nếu nghĩ rằng mình đang quan sát một việc lặp đi lặp lại, bạn sẽ thấy nhàm chán. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ hơn vào đối tượng, bạn sẽ hiểu được rằng không có hai khoảnh khắc nào là giống hệt nhau cả. Cái làm bạn chán chính là cái suy nghĩ cho rằng mình đang quan sát cùng một sự việc y hệt nhau. Trong thực tế, không có cái gì là giống hệt nhau cả, mỗi khoảnh khắc đều luôn mới mẻ. Khi đã thực sự thấy được điều này, tâm bạn sẽ luôn hứng thú với bất cứ điều gì mình quan sát. Không có phút giây nào là nhàm chán, bởi vì kinh nghiệm sẽ cho thấy rõ: mọi sự đều không ngừng biến dịch.

87. Tư tưởng có ảnh hưởng đến cách cảm nhận của bạn. Cách bạn nhìn nhận hành động của mình như thế nào là điều rất quan trọng.
88. Người hiểu được lợi ích của tu tập sẽ không bao giờ ngừng tu tập. Người ngừng lại chỉ đơn giản là vì không hiểu được pháp hành một cách đầy đủ.

89. Bất cứ khi nào bạn cảm thấy là không biết phải làm gì, thì hãy chờ đợi. Đừng làm bất cứ việc gì lúc đó cả.

90. Chánh niệm là khi tâm bạn có đầy đủ sự hay biết!

91. Chánh niệm cần có thời gian để phát triển; khi mới tu tập bạn phải luôn tự nhắc mình chánh niệm, nhưng khi đã có được đà quán tính, bạn sẽ duy trì được sự hay biết một cách tự nhiên. Bạn không thể ép buộc chánh niệm phải trở nên mạnh được. Chỉ bằng cách chánh niệm liên tục thì mới tạo được đà quán tính cho nó.

92. Khi tâm thanh tịnh, an lạc và quân bình, bạn sẽ phát hiện được ngay lập tức bất cứ sự căng thẳng nào xảy ra trên thân, được gây ra bởi ngay cả những phiền não rất vi tế.

93. Để hiểu được phiền não, bạn phải quan sát chúng nhiều lần. Nếu chỉ có được hay chỉ mong đợi có được những kinh nghiệm tốt đến với mình thì có lợi ích gì? Còn nếu bạn hiểu được bản chất của phiền não, chúng sẽ tan biến ngay tức khắc. Một khi bạn đã giải quyết được phiền não thì các kinh nghiệm tốt đẹp sẽ đến một cách tự nhiên. Hầu hết các thiền sinh đều mắc phải sai lầm là mong đợi những kinh nghiệm tốt thay vì phải cố gắng làm việc với chính các phiền não.

94. Đôi khi bạn sẽ có cảm giác là việc giữ chánh niệm, hay biết các đề mục thật là lãng phí thời gian. Quan điểm này hoàn toàn sai lầm. Mấu chốt của pháp hành chính là ở tự thân nơi chánh niệm, chứ không phải là ở đề mục. Khi có chánh niệm là bạn đang đi đúng hướng.

95. Hãy học cách quan sát phiền não chỉ như là phiền não, chứ không phải là "tôi đang bị phiền não".

96. Cần phải chấp nhận tính chất của chánh niệm như nó đang là. Khó khăn thường nảy sinh khi bạn chấp vào một định kiến cho rằng chánh niệm là phải như vầy như vầy. Không chấp nhận tính chất của chánh niệm, tức là bạn đang có thái độ sai lầm và rồi rất có thể bạn sẽ cố gắng phấn đấu để có được một kinh nghiệm nào đó do trí tưởng tượng đẻ ra.

97. Muốn tìm được trạng thái cân bằng đúng đắn, bạn phải trải nghiệm qua và hiểu được thế nào là các cực đoan đã.

98. Để chánh niệm bạn không cần thiết phải nỗ lực thật nhiều. Khi sống trong hiện tại là ta đã có chánh niệm về những gì đang diễn ra. Chỉ đơn giản tự nhắc mình luôn sống trong hiện tại-đó là tất cả nỗ lực bạn cần có để giữ chánh niệm.


99. Khi chánh niệm đã có đà quán tính, chánh niệm về tâm chánh niệm sẽ duy trì được đà tiến đó.

100. Khi tâm tĩnh lặng và an lạc, và lúc đó không có đề mục nào nổi bật để quan sát cả, thì bạn hãy nhân cơ hội đó để nhận biết rõ tính chất và sức mạnh của chánh niệm.

101. Khi đã trưởng thành trong pháp hành, bạn sẽ có thể giải quyết được các tình huống khó khăn, đơn giản bởi vì bạn đã hiểu được những nhân duyên đằng sau chúng. Hiểu được các điều kiện tạo duyên sẽ giúp bạn giải quyết được nguyên nhân của nó. Tại sao không lấy chính những hoàn cảnh khó khăn này làm cơ hội để mình học hỏi?

102. Điều quan trọng là phải nhận ra được những điều mình thường đoán định, giả tưởng. Chúng được dựa trên những quan kiến sai lầm, và sẽ ngăn cản không cho bạn thấy được bản chất thực sự của mọi việc.

103. Thiền minh sát (Vipassanā) luôn lùi lại đằng sau để nhìn mọi việc một cách rõ ràng hơn, trong khi thiền an chỉ định (Samatha) thì chìm lắng, thể nhập vào trong đề mục. Bước lui lại một chút và quan sát sẽ giúp cho trí tuệ sanh khởi.

104. Lúc đầu bạn khởi sự hành thiền bằng cách giữ chánh niệm. Nhưng khi đã thuần thục trong việc đưa tâm về với hiện tại, bạn có thể bắt đầu quan sát và tìm hiểu xem mình đang chánh niệm về cái gì.

105. Suy nghĩ ở trong tâm. An lạc cũng ở trong tâm. Hiểu được điều này sẽ giúp bạn quan sát chúng như là những đối tượng của tâm hơn là một cái gì đó của riêng mình, một cái gì đó "của tôi". Nếu bạn không thấy rằng an lạc chỉ đơn giản là một trạng thái của tâm thì bạn sẽ bị lôi theo và đắm chìm trong đó.

106. Kiểm tra lại thái độ của mình cũng chính là chánh niệm.

107. Nếu bạn mất hứng thú hành thiền hoặc cảm thấy mình không biết thực hành như thế nào, chớ vội hoảng lên, đừng cố tự ép buộc mình phải hành thiền. Chỉ cần tự nhắc nhở mình và thư giãn, buông lỏng ra. Sau một thời gian, hứng thú hành thiền sẽ quay trở lại một cách tự nhiên. Cố gắng gượng ép vào lúc đó sẽ chỉ làm mọi việc xấu đi thêm mà thôi.

108. Khi có cảm giác chống đối, kháng cự khởi lên trong tâm, hãy học cách cảm nhận nó một cách trực tiếp.


109. Có nhiều người rất miễn cưỡng khi phải đối diện với các kinh nghiệm xấu trong quá trình thiền tập. Song bạn lại thường học hỏi được từ các kinh nghiệm xấu nhiều hơn là từ những kinh nghiệm tốt; thực tế, những hiểu biết sâu sắc lại thường sanh khởi trong khi làm việc với chính các kinh nghiệm xấu này! Bạn hãy học cách chấp nhận cả kinh nghiệm tốt lẫn kinh nghiệm xấu.

110. Có một số kiến thức lý thuyết về pháp học là điều quan trọng, nhưng bạn chỉ nên chấp giữ nó lỏng lỏng thôi. Thông tin hướng dẫn cũng vậy, chỉ là để giúp bạn hành thiền đúng đắn và hiệu quả mà thôi. Cố gắng ý thức rõ và thận trọng mỗi khi bạn đi đến kết luận vội vàng vì có được một kinh nghiệm nào đó có vẻ trùng hợp với lý thuyết.

Khi bạn đã thực sự hiểu bằng kinh nghiệm trực tiếp của mình, bạn sẽ nhận ra sự khác biệt rất lớn giữa cái hiểu ban đầu về lý thuyết với cái hiểu đích thực trong thực tế.

111. Bạn chỉ có thể quan sát những gì mình đang kinh nghiệm trong hiện tại. Bạn không thể quan sát được những gì chưa đến hay những gì đã xảy ra trong quá khứ.

112. Đừng can dự vào những sự việc đang diễn ra. Hãy học cách chỉ đơn thuần chánh niệm về nó mà thôi.

113. Khi bạn chánh niệm về tâm chánh niệm của mình, đó chính là lúc bạn đang hành thiền.

114. Hãy để tâm tự lựa chọn đề mục của nó một cách tự nhiên. Bạn chỉ cần hay biết về tính chất của tâm chánh niệm của mình là đủ.

115. Nếu bạn có kinh nghiệm trong việc quan sát tâm chánh niệm của mình, bạn sẽ biết chắc chắn mỗi khi nó có mặt, và ngay cả khi thất niệm, bạn cũng hay biết về sự vắng mặt của nó.

116. Mặc dù thực hành chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày là một điều rất khó, song bạn vẫn phải kiên trì thực hành. Không sớm thì muộn, ngay cả một cố gắng nhỏ bé để chánh niệm cũng sẽ mang đến một sự thay đổi dễ nhận thấy cho cuộc đời bạn.

117. Tìm kiếm những điều mà ta cho là mình thực hành để thấy được nó, đó không phải là thiền chánh niệm. Thiền chánh niệm chỉ là hay biết về tất cả những gì đang đến với bạn.

118. Khi bạn quan sát một sự việc nào đó, đừng tự đồng hoá mình với nó; đừng nghĩ nó như là "tôi" hay "của tôi". Chỉ đơn giản chấp nhận nó như là một điều cần phải biết, cần phải quan sát và thấu hiểu mà thôi.

119. Công việc của chánh niệm chỉ là hay biết. Công việc của trí tuệ là phân biệt cái gì là thiện; cái gì là bất thiện.

120. Sự chấp nhận thực sự và xả ly là con đẻ của trí tuệ.

121. Bất cứ khi nào bạn có trí tuệ là bạn có chánh niệm; song có chánh niệm thì không nhất thiết là bạn đã có được trí tuệ.

122. Phải luôn luôn thấy rằng việc kiểm tra thái độ của mình trước khi vào ngồi thiền là một việc làm quan trọng. Hãy thật đơn giản. Chỉ ngồi và quan sát những gì đang diễn ra. Để biết được mình đang làm gì lúc này có khó lắm không?

123. Lúc mới đầu thì trí tuệ đến chậm hơn một chút so với chánh niệm. Tuy nhiên, trải qua thời gian, cùng với sự thực hành, khi bạn đã phát triển được trí tuệ thì trí tuệ sẽ sanh khởi đồng thời với chánh niệm.

124. Khi mọi việc tốt đẹp, hãy học cách xả ly, không dính mắc với chúng. Khi mọi việc không còn thuận lợi, hãy học cách chấp nhận.

125. Lúc mới thực hành, bạn có thể có cảm giác rằng có quá nhiều thứ cần phải quan sát, song khi đã có đà chánh niệm thì mọi việc dường như trở nên chậm lại và bạn sẽ có đủ thời gian để theo dõi tất cả mọi thứ, và thấy được nhiều chi tiết hơn. Điều này giống như việc nhìn một đoàn tàu đang chạy. Nếu bạn đứng sát đường ray và nhìn đoàn tàu chạy qua rất nhanh, bạn sẽ thấy chủ yếu là sự chuyển động và không thể nhìn được chi tiết nào của nó. Nhưng khi chính bạn cũng đứng trên một đoàn tàu khác chạy song song với vận tốc tương đương, thì bạn sẽ không thấy được toàn thể con tàu, nhưng lại có đủ thời gian để nhìn kỹ từng chi tiết của nó.


Tuesday, 12 April 2016

Vượt qua chướng ngại

vi mt v Tỳ kheo, này Ananda, là bn vi thin, giao du vi thin, kết hp vi thin, được ch đi là s tu tp và thc hành nghiêm túc Bát Thánh Đo... Nh ly Ta như mt bc thin tri thc (bn lành), các chúng sanh b sanh được gii thoát khi sanh, các chúng sanh b già được thoát khi già, các chúng sanh b chết được thoát khi chết, và các chúng sanh b su, bi, kh, ưu, não được gii thoát khi su, bi, kh, ưu, não.’

‘ Này Ananda, cn phi hiu vì sao toàn b đi phm hnh là nh thin bn hu, thin giao du, thin kết hp theo cách này vy.’

Hơn na, trong kinh Dutiyasekkha Sutta ca Itivuttaka, Đc Pht có nói như sau:


‘ Này các Tỳ kheo, đi vi v Tỳ kheo là bc hu hc, chưa đt đến s hoàn thin nhưng đang sng cn cu s an n ti thượng khi các trói buc, v các yếu t bên ngoài, Ta không thy mt yếu t nào khác hu ích như thin bn hu. Này các Tỳ kheo, mt v Tỳ kheo có thin bn hu (có bn lành), s đon tr nhng pháp bt thin và tu tp nhng pháp thin.’

Tỳ kheo có bn lành,
Tôn quý và kính trng,
Làm theo li bn khuyên,
Tnh giác và chánh nim,
S tun t đt đến,
Ch dt mi kiết s.

Nói chuyn thích h
Trong Mahāsuññata Sutta ca Trung B Kinh (Majjhimā Nikāya), Đc Pht nói:
                                       
‘ Khi mt v Tỳ kheo trú như vy, nếu tâm v y hướng đến nói chuyn, v y quyết đnh như sau:

“ S nói chuyn như vy là thp hèn, thông tc, thô tháo, đê tin, không có li ích và nht là không dn đến s yếm ly, ly dc, đon dit, an tnh, thng trí, giác ng và Niết Bàn, đó là, nói v vua chúa, nói v phường trm đo, nói v quan li, quân binh, nhng him nguy, chiến trn, đ ăn ung, y phc, giường nm, vòng hoa, du thơm, quyến thuc, xe c, làng mc, tnh l, đô th, quc gia, ph n, anh hùng, đường sá, giếng nước, người chết, chuyn tm phào, ngun gc ca thế gian, ngun gc ca bin c, nhng chuyn có như vy hoc không có như vy, ta s không nói nhng chuyn như thế.” Theo cách này, v y có s tnh thc đy đ v vic nói.

‘ Nhưng v y quyết đnh:

“Nói chuyn như thế liên quan đến s thu thúc, có li cho tâm gii thoát, nht là dn đến s yếm ly, ly tham, đon dit, an tnh, thng trí, giác ng, Niết Bàn, đó là, nói v thiu dc ( ít mun), nói v tri túc (biết đ), nói v đc cư, xa lánh qun t, khơi dy tinh tn, gii hnh, đnh tâm, trí tu, gii thoát, gii thoát tri kiến. Nói chuyn như thế ta s nói.”

‘Theo cách này, v y có s tnh thc đy đ v vic nói.’

Nhng cách khác

Trên đây là sáu pháp có li ích trong vic khc phc tham dc. Ngoài sáu pháp y, chi thin nht tâm, nim căn và nim giác chi cũng li ích trong vic vượt qua tham dc na.

Đ cho quý v mt ví d v cách phi tu tp chánh nim như thế nào, tôi s trích dn mt bài kinh khác t Mahāvagga ca Tương Ưng Kinh (Sayutta Nikāya):

Mt ln n, Đc Thế Tôn trú gia nhng người dân x Sumbha ti Sedaka, mt th t ca người dân Sumbha. đó, Đc Thế Tôn nói vi các Tỳ kheo:

“Này các Tỳ kheo, ví như có mt đám đông người t tp vi nhau, la lên “ Ô, hoa hu! Hoa hu! Và nếu cô gái hoa hu y còn có năng khiếu din xut như ca múa na, thi đám đông s la ln hơn: “Ô hoa hu đang múa, hoa hu đang hát!”

Ri có mt người, mun sng, không mun chết, mun lc và chán ghét kh đau. Mi người nói vi anh ta như sau: “Này anh kia, hãy nhìn đây! Đây là cái bát du đy lên ti ming. Anh phi mang cái bát du đy này đi gia đám đông và cô gái hoa hu. Mt người vi thanh kiếm giơ cao s theo sau lưng anh, và ti ch nào anh làm đ, dù ch mt git du, ti ch đó người y s cht đt đu anh!”

‘ Bây gi các ông nghĩ thế nào, này các Tỳ kheo? Liu người đàn ông đó, có không chú ý đến bát du, có dám gt s chánh nim ra ngoài không?’

‘ Chc chn là không, bch Đc Thế Tôn.’

‘ Phi, này các Tỳ kheo, ví d này Ta đưa ra đây đ làm rõ ý nghĩa. Và ý nghĩa ca nó là như thế này: “Bát du đy ti ming, này các T kheo, là mt t đ ch nim thân”

‘Do đó, này các Tỳ kheo, các ông phi hc tp như sau: “ Chúng ta cn phi tu tp nim thân, nim thân phi được làm cho sung mãn, làm cho thành c xe, làm cho thành mt bng. Nim thân phi được làm cho có hiu qu, làm cho khéo quen thuc, và làm cho hoàn thành trong chúng ta.”

‘ Này các Tỳ kheo, các ông phi hc tp như vy.’

Đ ch cho quý v thy thêm ti sao chúng ta phi có s chú nim trong tng sát na hay trong tng khonh khc ca cuc sng, tôi s trích dn kinh Paduṭṭhacitta ca b Itivuttaka, đây Đc Pht nói như sau:

đây, này các Tỳ kheo, người kia có ni tâm đi bi. Vi Tâm ca Ta, Ta xem xét tâm ca người y, Ta biết rng nếu người y chết lúc đó, người y s rơi vào đa ngc. Lý do vì sao? Đó là vì ni tâm ca v y đi bi. Chính vì ni tâm đi bi mà mt s chúng sanh đây (thế gian này), khi thân hoi mng chung, s tái sanh trong cõi kh, ác thú, đa ngc.’

Tôi s nêu ra đây cho quý v mt vài thí d đ chng minh bài Kinh trên. Gi s mt người nam thy mt người n đp và nghĩ : “,cô nàng này đp tuyt! Đôi bàn tay ca ca cô ta thon th làm sao! v.v.”.. Và nếu anh ta chết ngay lúc đó, anh ta s b tái sanh vào mt trong bn ác đo (đa ngc, ng qu, súc sanh và Atula). Tương t, nếu mt người n chết vào lúc khi lên mt ý nghĩ nhc dc do thy mt người nam, cô ta cũng s tái sanh vào mt trong bn ác đo như vy. Bt c lúc nào, nếu mt người chết vào lúc khi lên mt ý nghĩ bt thin, như ý nghĩ nhc dc hoc ý nghĩ sân hn, chc chn người y s tái sanh vào mt trong bn ác đo. Quý v thy, ngay c mt ý nghĩ bt thin cũng có sc mnh như vy, cũng khng khiếp như vy. Và chúng ta trong mt ngày có nhiu ý nghĩ thin hơn hay nhiu ý nghĩ bt thin hơn? Th nghĩ v điu đó xem. Tôi nghĩ chc quý v biết rng Tôn gi Devadatta (Đ-bà-đt-đa) là người có tám thin chng và năm thn thông hip thế (bát thin ngũ thông), nhưng cui cùng ông ta vn rơi vào đa ngc A tỳ (Avici) do ác nghip đã làm vy. Còn hin nay quý v có bát thin ngũ thông không?

Như vy, vì li ích  ca bn thân, mc dù quý v không th có chánh nim liên tc, song quý v vn nên hết sc mình đ gi chánh nim trong mi lúc, dù khi đi, đng, ngi hay nm trong sut c ngày. Quý v phi luôn chánh nim v hơi th ca mình, v t đi, v ba mươi hai th trược, v đ mc kasina, v danh và sc, hay v mười hai chi phn duyên sanh (thp nh nhân duyên), tùy thuc vào đ mc quý v đang thc hành. Nếu quý v thc hành liên tc theo cách này, thi do sc mnh ca s lp đi lp li chc chn đnh và chánh nim ca quý v s càng lúc càng mnh hơn.   Vic làm này cũng ging như nu nước sôi. Nếu quý v nu mt bình nước trong vòng vài phút ri ngưng đ cho nó ngui tr li. Ln th hai quý v li nu vài phút ri li đ cho nó ngui tr li. Theo cách này, dù cho quý v có nu c trăm hay ngàn ln, nước cũng không th sôi được. Tuy nhiên, nếu quý v nu nước liên tc không ngng, chng bao lâu nó s sôi. Tương t, nếu quý v hành thin trong vài tun hay vài tháng ri ngưng. Ln th hai quý v cũng thc hành trong vài tun hay vài tháng ri li ngưng, không tiếp tc công vic hành thin ca quý v na. Hay nếu quý v hành thin trong lúc ngi nhưng li làm công vic gì khác gia các thi ngi, thì s tht bi. Dù quý v có thc hành như thế này sut c cuc đi quý v cũng không th đt đến mt đo qu nào được. Nhưng nếu quý v thc hành liên tc vi lòng tôn kính ( pháp hành) trong nhiu tháng hay nhiu năm, thì rt có th quý v s thành tu cu cánh. Nếu quý v thc lòng ước mun cho s an vui hnh phúc ca mình, tôi nghĩ quý v biết nhng gì phi làm.

Thường thì sân có hai loi, đó là, sân hung hăng và sân trm ut. Đ chế ng hay vượt qua loi sân th nht, tu tp tâm t là pháp môn tt nht, bi vì sân và t là hai thái cc không th cùng hin hu. Vì l trong mt sát -na tâm, ch có mt tâm duy nht có th khi lên, nên khi t tâm có mt, sân tâm không th khi lên, và ngược li.
 Sân h
Trong kinh Tương Ưng (Sayutta Nikāya), Đc Pht đưa ra mt hình nh đ minh ha sân hn như sau:

‘ Nếu có mt bình nước đun nóng trên la, nước s si bt và sôi lên, mt người vi th lc bình thường, nhìn vào bình nước y, không th nhn ra và thy được hình nh ca khuôn mt mình mt cách đúng đn. Cũng tương t như vy, khi tâm mt người b sân hn ám nh, b sân áp đo,h không th thy được li thoát khi sân hn đã khi lên mt cách đúng đn; t đó h cũng không th hiu và thy mt cách đúng đn li ích ca mình, không th hiu và thy mt cách đúng đn li ích ca người, không th hiu và thy mt cách đúng đn li ích ca c hai; nhng bài pháp đã hc thuc lòng trước đây không đi vào tâm ca h ( không nh được), nói gì đến nhng bài pháp không thuc.’

Trong Eka-Nipāta ca Tăng Chi Kinh ( Aguttara Nikāya ), Đc Pht nói như sau:

‘Này các Tỳ kheo, Ta không thy mt pháp nào khác có sc mnh như vy khiến cho sân chưa sanh, sanh khi, hay, sân đã sanh khiến cho mãnh lit, tăng trưởng, như nét đáng chán (đi ngi tướng).

Nơi người nào phi lý tác ý đến nét đáng chán, sân hn chưa sanh s sanh khi, hay, sân hn đã sanh tr nên mãnh lit, tăng trưởng.’

‘ Này các Tỳ kheo, Ta không thy mt pháp nào có sc mnh như vy, ngăn được s sanh khi ca sân, nếu chưa sanh, hay, nếu sân đã sanh, khiến cho được đon tr, như t tâm gii thoát.

Nơi người nào như lý tác ý đến t tâm gii thoát thì sân, nếu chưa sanh, không sanh, hay, sân, nếu đã sanh, khiến cho được đon tr.’

Cũng trong Tăng Chi Kinh ( Aguttara Nikāya ), bài pháp vượt qua sân hn được Đc Pht dy như sau:

‘ Này các Tỳ kheo, có năm cách vượt qua sân hn. Bt lun khi nào sân hn khi lên nơi mt v Tỳ kheo, nó cn phi được vượt qua mt cách hoàn toàn. Thế nào là năm?

‘ Nếu lúc nào sân hn khi sanh nơi mt người, trong người y, t phi được tu tp, trong người y, bi phi được tu tp, trong người y x phi được tu tp, trong người y trng thái không nh (vô nim) không tác ý đến đi tượng to ra sân hn cn phi được tu tp, trong người y ý thc v s kin nghip (kamma) ca mt người là tài sn riêng ca người y phi được tu tp... Như vy sân s được vượt qua nơi người y. Qu thc, đây là năm cách vượt qua sân hn. đâu sân hn khi lên nơi mt v Tỳ kheo, đó nó s được vượt qua mt cách hoàn toàn.’

Thường thì sân có hai loi, đó là, sân hung hăng và sân trm ut. Đ chế ng hay vượt qua loi sân th nht, tu tp tâm t là pháp môn tt nht, bi vì sân và t là hai thái cc không th cùng hin hu. Vì l trong mt sát -na tâm, ch có mt tâm duy nht có th khi lên, nên khi t tâm có mt, sân tâm không th khi lên, và ngược li.   Như vy khi quý v có tâm t, sân không th nào sanh khi. Nếu quý v thường xuyên trau di tâm t, dn dn nó s tr thành mt phn nhân cách ca quý v, và quý v s không th d dàng ni sân như trước na.

đây tôi s đưa ra mt thí d đ gii thích pháp môn ‘ trong người y trng thái nh nghĩ (vô nim) và không tác ý đến đi tượng to ra sân hn phi được tu tp’. Gi s, trong khi đi trên đường, quý v nhìn thy mt đng phân hôi thi, quý v có cn ht nó lên, b vào túi, ri ni gin vi mùi hôi thi ca nó và trách c ti sao nó làm bn áo qun ca quý v hay không? Tt nhiên điu đó không cn. Quý v ch vic đi ngang qua và hoàn toàn không cn phi đ ý gì đến nó. Tương t, mt ác nhân ngu si cũng ging như mt đng phân hôi thi. Quý v không cn bn tâm đến anh ta đ chuc ly phin phc vn không đem li tt lành gì cho c hai đàng. Quý v nên t hi mình như vy: ni gin có giúp ích gì cho vic hành thin không? Nếu có thì quý v nên ni gin. Song đó là chuyn không th. Vì thế c sao li phi ni gin?

Đi vi loi sân trm ut vn bao gm tt c các loi ưu su, bun bã, than khóc, tuyt vng (su, bi, kh, ưu, não) v.v... quý v cũng nên tác ý theo cách như trên. Tc là, nếu sân này có ích cho vic hành thin, thi quý v nên tu tp nó. Thc s, nó không li ích cho thin mà ch có hi mà thôi. Như vy, sao chúng ta li ngu ngc đến đ đ rơi vào tình trng sân đã không hoàn toàn không có li mà còn có hi này ch? Đc Pht, Tôn gi Xá Li Pht, Tôn gi Mc Kin Liên, tt c các v Thánh A-la-hán và Thánh Bt lai không bao gi ưu su, bun bã, than khóc và tuyt vng. Ti sao chúng ta không hc nhng người thánh thin, trí tu y? Tóm li, ưu su, bun bã, than khóc và tuyt vng thuc v nhng k yếu đui, và nó không đáng cho chúng ta tu tp vy.

Li na, chú gii T Nim X (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta) nói rng có sáu pháp li ích cho vic chế ng sân hn:

Hc cách thin tâm t;
Dành hết n lc cho vic hành thin tâm t;
Suy xét rng ta là ch nhân và k tha t ca nghip (Kamma)
Thường xuyên tác ý đến nó;
Thin bn hu;
Nói chuyn thích hp. 
Trong chương chín ca b Thanh tnh Đo (Visuddhimagga) có mt bn lun gii chi tiết v cách làm thế nào đ chế ng sân hn. Vì thy nó rt hu ích, nên tôi s mô phng li đây cho quý v biết:

Nếu s tc gin khi lên nơi hành gi khi hướng tâm đến mt người thù vì nh li lm li người y đã làm (vi mình), hành gi nên gt b cơn gin bng cách liên tc nhp vào thin (Jhāna) tâm t hướng tâm đến bt kỳ hng người nào đã đ cp trước đó, (đó là mt người thân, mt người rt thân và mt người không thân không thù) và ri, sau mi ln xut thin, hướng tâm t đến người (thù) đó.

Nhưng nếu s tc gin vn không dt sch bt chp nhng n lc ca hành gi, thì:

Hãy nh đến cái cưa
Vi nhng hình nh tương t khác,
Và c n lc liên tc như thế,
Đ b xa s tc gin phía sau.

Hành gi nên t răn bo mình theo cách này: Này k đang sân hn kia, chng phi Đc Thế Tôn đã nói, ‘ Này các Tỳ kheo, dù bn lc lâm tho khu có man r cưa đt tay chân các người vi cây cưa hai tay nm, người nào vì thế mà ôm lòng sân hn s không phi là người thc hành giáo pháp ca ta’ đó sao? (M. I, 129) và,

‘ Ly sân đáp người sân
T hơn người sân trước;
Không sân đáp người sân
Thng trn chiến khó thng.
Vì li ích c hai,
Li mình và li người
Mt khi ta đã biết,
K thù là sân hn,
Chánh nim gi bình yên.’ (S.i, 162)

đây, này các Tỳ kheo, có by pháp làm tha mãn và li ích cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn, dù là n hay nam. Thế nào là by ? Này các Tỳ kheo, đây mt k thù mong mun cho người nó thù như vy " Mong cho nó b xu xí." Ti sao vy ? Vì k thù không cm thy thích thú vi dung sc ca người thù. Bây gi người b phn n chi phi này là miếng mi cho sân hn, b sân hn thng tr ; dù cho tm k, có xc du thơm, vi tóc râu khéo ct ta và mc qun áo trng tươm tt, nó vn c xu, do là miếng mi cho sân hn vy. Đây là pháp th nht làm li ích và tha mãn cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn vy, dù là nam hay n. Li na, mt k thù mong cho người nó thù như vy, " Mong cho nó ng trong kh s !" Ti sao vy ? Này các Tỳ kheo, bây gi người b sân hn chi phi này, là miếng mi cho sân hn, b sân hn thng tr, dù có nm trên ghế dài, nm tri bng len, chăn len trng, chăn len thêu bông, nm bng da con sơn dương gi là   kadali, tm thm vi lng che phía trên, ghế dài có đ gi chân màu đ. Tuy vy, nó vn c ng mt cách kh s, do là vì miếng mi cho sân hn vy. Này các Tỳ kheo, đây là pháp th hai làm tha mãn và li ích cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn, dù là nam hay n. Li na, này các Tỳ kheo, mt k thù mong mun cho người nó thù như vy : " Mong cho nó không có li ích !" Ti sao vy ?   Này các T kheo, k thù không hoan h người thù ca nó được li ích. Bây gi người b sân hn chi phi này, là miếng mi cho sân hn, b sân hn thng tr, thu hoch điu bt li li nghĩ rng : " Ta không được li ích." Nhng pháp này được nm gi khiến người khác tr thành k thù đch, đưa đến không hnh phúc, đau kh lâu dài, do là vì miếng mi cho sân hn vy. Này các Tỳ kheo, đây là pháp th ba làm tha mãn và li ích cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn, dù là nam hay n. Li na, này các Tỳ kheo, mt k thù mong mun cho người nó thù như vy : " Mong rng nó không có tài sn !" Ti sao vy ? Này các Tỳ kheo, k thù không hoan h người nó thù được tài sn ! Bây gi, người b sân hn chi phi này, là miếng mi cho sân hn, b sân hn thng tr, nhng tài sn nào nó thu hoch được do s phn chn tinh cn, ct cha do sc mnh ca cánh tay, chng cht do nhng git m hôi, đúng pháp, thu hoch hp pháp. Các tài sn y b vua cho ch v ngân kh ca nhà vua, do vì miếng mi cho sân hn vy. Này các Tỳ kheo, đây là pháp th tư làm tha mãn và li ích cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn, dù là nam hay n. Li na, này các Tỳ kheo, mt k thù mong mun cho người nó thù như vy : " Mong rng nó không có danh tiếng !" Ti sao vy ? Này các Tỳ kheo, k thù không hoan h người nó thù có danh tiếng. Bây gi, người b sân hn chi phi này, là miếng mi cho sân hn, b sân hn thng tr, nếu có danh tiếng gì nh không phóng dt thu được, danh tiếng y xa lánh h, vì miếng mi cho sân hn vy. Này các Tỳ kheo, đây là pháp th năm làm tha mãn và li ích cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn, dù là nam hay n. Li na, này các Tỳ kheo, mt k thù mong mun cho người nó thù như vy : " Mong rng nó không có bn bè !" Ti sao vy ? Này các Tỳ kheo, k thù không hoan h người nó thù có được bn bè. Bây gi, người b sân hn chi phi này, là miếng mi cho sân hn, b sân hn thng tr, nếu có bn bè thân hu , bà con huyết thng gì, h s xa lánh, t b người đó, do vì là miếng mi cho sân hn vy. Này các Tỳ kheo, đây là pháp th sáu làm tha mãn và li ích cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn, dù là nam hay n. Li na, này các Tỳ kheo, mt k thù mong mun cho người nó thù như vy : " Mong rng nó sau khi thân hoi mng chung, s sanh vào trong cõi d, ác thú, đa x, đa ngc!" Ti sao vy ? Này các Tỳ kheo, k thù không hoan h người nó thù sau khi thân hoi mng chung, được sanh thin thú, Thiên gii, cõi đi này.   Bây gi, người b sân hn chi phi này, là miếng mi cho sân hn, b sân hn thng tr, làm các ác hnh vi thân, nói li ác vi khu, và nghĩ điu ác vi ý, khi thân hoi mng chung, sanh vào trong cõi d, ác thú, đa x, đa ngc do vì là miếng mi cho sân hn vy. Này các Tỳ kheo, đây là pháp th by làm tha mãn và li ích cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn, dù là nam hay n.

By pháp này, này các Tỳ kheo, làm li ích và tha mãn cho k thù xy ra đi vi mt người sân hn, dù là nam hay n.

K sân hn xu xí
Đau kh khi nm ng,
Được các điu li ích,
Li cho là bt li.
Sân hn, nó đã thương,
Vi thân và li nói,
Làm mi cho sân hn,
Tài sn b tiêu vong.
B sân hn điên lon
Danh d b hy dit,
Bà con cùng bn bè,
Lánh xa người sân hn.
Sân hn sanh bt li,
Sân hn giao đng tâm,
S hãi sanh t trong,
Người y không biết rõ.
Sân hn không biết li,
Sân hn không thy pháp… (A. iv, 94)

Và,

‘ Như mt khúc g t giàn ha thiêu, b cháy c hai đu, khúc gia li b thi, chng dùng làm g (xây dng ) làng, cũng chng dùng làm g rng được, Ta nói, mt người làm mi cho sân hn cũng thế’ (A.ii, 95, Iti.90)

Nếu bây gi mi sân hn, mi s là mt người không thc hành li dy ca Đc Thế Tôn, do ly sân hn đáp li người sân hn, mi còn t hơn người sân y và không thng được cuc chiến khó thng; chính mi s làm cho mi nhng điu vn ch có li cho k thù, làm cho k thù tha mãn, và mi cũng chng khác gì khúc g giàn ha thiêu.

Nếu, s tc gin ca hành gi lng xung khi c gng và n lc theo cách này, thì tt. Bng không, hành gi nên loi tr s khó chu bng cách nh li mt điu gì đó nơi người y đã được chế ng, trong sch, c vũ cho nim tin khi nh đến.  

Vì mt người có th chế ng hành vi nơi thân ca mình vi s chế ng trong quá trình thc hin mt  nhim v rng ln nào đó đã được mi người biết, mc dù nhng hành vi v li nói và ý nghĩ không được chế ng. Thi nhng khu hành và ý hành y cn phi được b qua và ch nh đến s chế ng nơi thân hành ca người y mà thôi.

Mt người khác có th chế ng được hành vi v li nói ca mình, và s chế ng ca anh ta mi người đu biết –anh ta có th lanh li t nhiên trong vic tiếp đón (khách) mt cách lch thip, d nói chuyn, tương đc, ci m, biết tôn trng trong cách nói và có th din ging Pháp (Dhamma) vi cht ging ngt ngào, gii thích Pháp vi văn cú đy đ - mc dù hành vi v thân và ý ca anh ta không được chế ng. Thi hai hành vi sau nên b qua và ch nh s chế ng nơi khu hành ca người y mà thôi.

Trong khi mt người khác có th chế ng được hành vi ý thc ca mình, và s chế ng ca anh ta được th hin trong lúc l bái ti các đin th v.v… rt hin nhiên vi mi người. Vì khi mt người không có s chế ng trong tâm đnh l ti các đin th (Pht, xá-li) hay ti cây B đ hoc đnh l các bc Trưởng lão, h không làm điu y mt cách cn trng, và khi ngi trong ging đường hay nghe Pháp, tâm h phóng đi lung tung hay ng gà ng gt. Ngược li, người tâm được chế ng đnh l mt cách thn trng và có suy nghĩ, nghe Pháp mt cách chăm chú, ghi nh pháp, và biu l nim tin trong tâm ca mình qua thân và khu. Vì thế, người khác ch có th chế ng được hành vi ý thc ca mình, dù thân và khu không được chế ng. Thi hãy nh đến s chế ng nơi hành vi y và b qua thân và khu hành ca h.

Nhưng có th mt người khác thm chí không có mt hành vi nào trong ba hành vi này được chế ng nơi h. Thi lòng bi mn đi vi người đó phi được khơi dy như vy: Mc dù hin ti hn ta đang lang thang trong thế gii loài người, tuy nhiên sau mt s ngày nào đó hn ta s thy mình nơi (mt trong) tám đi đa ngc hay nơi mười sáu đa ngc ni tiếng. Thì s khó chu cũng lng du nh lòng bi mn vy.

Vn có mt người khác c ba hành vi đu được chế ng. Trong trường hp như vy hành gi có th nh đến bt c hành vi nào trong ba hành vi nơi người y mà hành gi thích nht; vì s tu tp tâm t đến vi mt người như vy rt d.

Và đ làm rõ ý nghĩa bài kinh sau đây t quyn V ca Tăng Chi Kinh (Anguttara Nikāya) s được trích dn đy đ: ‘ Này các Tỳ kheo, có năm cách xua tan him hn, him hn khi lên mt ch nào nơi mt v Tỳ kheo, có th được xua tan mt cách hoàn toàn.’

Nhưng nếu s khó chu vn khi lên bt chp nhng n lc ca hành gi, thi hành gi t nên cnh tnh mình như sau:

‘ Nếu như có k thù làm hi
Mi biết ri lãnh vc ca y
Sao li còn t hi thân mình
Tâm mi? Đâu phi lãnh vc ca nó.

Vi nước mt mi t b gia đình
H cũng nhân t và giúp ích.
Thế sao không t b k thù,
Sân hn đem hi đến cho mi?
Sân hn này gm mòn tn gc
Mi gii đc mi tng gìn gi-
Hi còn ai ngu ngc như mi?
Người kia làm nhng điu bt thin.
Vy là mi bc, đúng không?
Có nghĩa là mi mun bt chước
Nhng li lm mà hn phm chăng?

Nếu người khác, gây nên phin mun,
Vi hành vi kh ca mi,
Sao đ cho ni lên sân hn,
Và làm như hn mun mi làm?

Nếu như mi ni gin, thì sao
Mi làm hn kh, hay không kh!
Dù đã đau do sân mang li
Chc chn mi b pht bây gi.

Nếu k thù do sân mù quáng
Khi s trên đường kh bước đi
Liu mi có ni sân như hn
Ni gót theo đường kh hay không?

Nếu k thù làm mi tn hi
Lm li do sân hn ca mi
Thì hãy mau dp tt nó đi,
Vì sân y tht là phi lý.

Các pháp vn sát na tn ti
Ngũ un kia, qua đó h làm
Vic kh , gi cũng đã dit,
Thế thì mi gin vi cái chi ?

Nó hi ai, và ai hi li nó
Chính s hin hu ca mi
Mi là nhân gây đau kh
Vy c sao mi còn ni sân?’

Nhưng nếu khi đã t cnh tnh mình như vy mà s tc gin vn không lng xung, thì hành gi nên xét đến s kin rng c hành gi và người kia đu là nhng ch nhân ca nghip (kamma).

đây, trước hết hành gi nên xét li điu này nơi t thân: Bây gi điu quan trng ca vic mi ni sân vi hn là gì? Chng phi nghip (kamma) bt ngun t sân hn này ca mi s dn đến s t hi mình sao? Và mi là ch nhân ca nghip, là k tha t ca nghip, nghip là cha m, là quyến thuc, là nơi nương nh ca mi; mi s tr thành k tha t nhng nghip mà mi đã làm. Và nghip mà mi làm đây không phi là nghip mang mi ti s giác ng viên mãn, đến s giác ng không tuyên bc Giác Pht) hay đến đng cp ca v đ t Pht, hoc đến bt kỳ đa v nào như đa v ca phm thiên hay Đế Thích (Sakka), hay ngai vàng ca mt Chuyn Luân Vương, hay mt v vua thường v.v..., mà đúng hơn đây là loi nghip s dn đến s xa ri Giáo Pháp ca mi, thm chí đến đa v ca mt người ăn nhng vt b đi v.v.., và đến nhiu loi kh khác trong các đa ngc, và vân vân. Do làm (nghip) này mi chng khác gì mt người mun đánh người khác li lượm mt hòn than hng đang cháy hay mt cc phân nhơ nhp trong tay và trước hết t làm phng tay mình hay làm dơ tay mình vy.

Sau khi đã xét li quyn s hu ca nghip nơi t thân theo cách này, hành gi cũng nên suy xét nó nơi người khác na: và điu quan trng ca vic hn ni sân vi ta là gì? Chng phi nghip (kamma) bt ngun t sân hn này ca hn s dn đến s t hi mình sao? Vì hn là ch nhân ca nghip, là k tha t ca nghip, nghip là cha m, là quyến thuc, là nơi nương ta ca hn; hn s tr thành k tha t ca nhng nghip mà hn đã làm. Và nghip mà hn đang làm đây không phi là loi nghip mang hn ti s giác ng viên mãn, đến s giác ng không tuyên bc Giác Pht) hay đến đng cp ca v đ t Pht, hoc đến bt kỳ đa v nào như đa v ca phm thiên hay Đế Thích (Sakka), hay ngai vàng ca mt Chuyn Luân Vương, hay mt v vua thường v.v..., mà đúng hơn đây là loi nghip s dn đến s xa ri Giáo Pháp ca mi, thm chí đến đa v ca mt người ăn nhng vt b đi v.v.., và đến nhiu loi kh khác trong các đa ngc, và vân vân. Do làm (nghip) này hn chng khác gì mt người mun ném bi vào người khác li đng ngược gió và ch lãnh bi đy mình mà thôi.

Vì điu nay được Đc Thế Tôn nói đến:

‘ Khi k ngu hi người vô hi,
Người thanh tnh, không làm điu lm li,
Điu ác y s quay li k ngu,
Như ngược gió mà nhè người quăng bi.’
(Dhp. 125)

Nhưng nếu sân hn vn không lng xung khi hành gi suy xét v nghip theo cách này, thì hành gi nên suy xét đến nhng đc đc bit trong cách cư x ca Đc Pht trước đây.

Đây là cách suy xét: Bây gi mi, người đã xut gia, chng phi là khi Đo Sưc Pht) ca mi còn là mt v B -tát, trước khi tìm được s giác ng viên mãn, lúc vn còn đang thc hành đ chu toàn các ba-la-mt sut bn A-tăng-kỳ và mt trăm ngàn đi kiếp, ngài đã không đ cho sân hn làm ô nhim tâm ngài ngay c khi nhng k thù c tìm mi cơ hi đ giết hi ngài đó sao? Chng hn như, trong chuyn tin thân Sīlavant (Sīlavant Jātaka 1, 216) khi nhng người bn ngài đng đng lên đ ngăn vương quc ba trăm lý ca ngài b chiếm gi bi mt v vua thù nghch, người đã b mt viên đi thn đc ác xúi dc và chính hoàng hu đã gieo s hn thù đó vào tâm trí ông ta, nhưng ngài không đ cho nhng người bn ca mình cm vũ khí. Li na, khi ngài b chôn sng, cùng vi mt ngàn người bn, đt lp lên ti c trong mt cái h mà người ta đào trong nghĩa đa, ngài cũng không khi mt ý sân hn. Và, sau khi t cu mng mình bng mt n lc anh hùng được giúp đ bi nhng con chó rng cào đt ra khi chúng đến đ ăn nhng xác chết, ngài đã đi v phòng ng ca mình vi s tr giúp ca mt phi nhân và nhìn thy k thù ca mình đang nm trên chính giường ca ngài, ngài không ni gin mà đi x vi y như mt người bn, cùng nhau đưa ra li ha, và ri Ngài tuyên b:

‘Lòng khát khao dũng cm
Bc trí không tht vng;
Ta đã thy chính ta
Như ta đã ước nguyn.

Và trong chuyn tin thân Khantivādi (Khantivādi Jātaka), vua Kasi ngu ngc hi ngài, ‘Này nhà sư, ông dy pháp gì?’ và ngài tr li, ‘Ta dy pháp nhn nhc’, và khi nhà vua cho người đáng ngài bng roi gai và cht đt tay chân ca ngài, ngài vn không cm thy chút sân hn nào (Ia. Iii, 39)

Có l khi mt người trưởng thành và thc lòng xut gia sng đi không gia đình hành đng theo cách này thì không có gì là kỳ diu lm; nhưng khi còn là mt đa tr thơ, Ngài cũng đã làm như vy. Vì trong chuyn tin thân Cūla- Dhammapāla ( Cūla- Dhammapāla Jātaka) tay chân ngài đã b ph vương, đc Vua Mahā Patāpa, ra lnh cho quân lính ct đt ging như bn búp măng, và mu hu đã than khóc ngài như thế này:

‘Ôi đôi tay con ta, Dhammapāla, đã b ct đt
Đôi tay đã tng được tm trong trm hương;
Con là k tha t ca toàn cõi đt;
Hi đc Vua, ta nghn th mt đi thôi!’
(Jā, iii, 181)

Thế mà cha ngài, vn không tha mãn, còn ra lnh cho ct đt luôn đu ngài. Nhưng ngay c lúc đó ngài cũng không chút du vết sân hn, vì l ngài đã quyết đnh vng chc: ‘ Gi là lúc đ ta chế ng tâm ca ta; này hi Dhammapāla kia, hãy vô tư đi vi bn người này, đó là, đi vi người cha đang ra lnh ct đu ngươi, đi vi người đang cht đu ngươi, đi vi người m đang than khóc ca ngươi, và vi chính bn thân ngươi.’

Và có l, mt chúng sinh được làm người hành đng theo cách này thì không có gì đáng kinh ngc lm; nhưng khi làm thú vt ngài cũng đã hành đng như thế. Vì trong lúc Đc B tát còn là mt con voi có tên là Chaddanta, ngài đã b người ta đâm vào rn bng mt mũi lao tm thuc đc. Nhưng ngay c như vy ngài cũng không đ cho sân hn đi vi người th săn đã đâm ngài b thương làm ô nhim tâm ca ngài, vì như chuyn k:

‘ Con voi khi b đâm bng mt mũi lao,
Đã nói vi th săn vi tâm không sân hn:
“Mc đích ca ngươi là gì? Lý do ti sao
Ngươi li giết ta như vy? Mc đích đ làm gì?”
(Jā. V, 51)

Và khi voi nói như vy, người th săn tr li ‘ Thưa ngài, hoàng hu ca vua Kāsi phái tôi đến đây đ ly cp ngà ca ngài’, đ hoàn thành ước mun ca hoàng hu, ngài đã ct cp ngà ca mình, cp ngà mà s rc r tuyt vi ca nó chiếu sáng vi nhng tia sáng sáu màu, và trao nó cho người th săn.

Li na, khi đc B tát làm Kh Chúa , người đàn ông mà ngài đã cu mng hn bng cách kéo hn lên khi vc đá nghĩ:

‘Đây món ăn cho người
Như nhng thú rng khác,
Vy sao người đang đói
Không giết kh đ ăn?
Ta s đi t ti
Ly tht kh đ dành;
Ta s vượt hoang đa
Vi tht kh làm lương.’
(Jā. v. 71)

Nghĩ ri hn lin lượm mt hòn đá ném mnh vào đu ngài. Nhưng kh chúa nhìn hn vi đôi mt đm l và nói,

ch có làm thế,
Bi vì nếu không thì
S phn mà ngươi gt
S cn tr lâu dài
Đã có nhng người khác
B nhng nghip như vy
Như ngươi làm hôm nay.’


Và vi tâm không sân hn, bt chp s đau đn, ngài đã đưa người đàn ông y đến cui cuc hành trình ca hn mt cách an toàn.


Khi làm Long vương Campeyya cũng vy, ngài không đ cho sân hn khi lên trong tâm lúc b mt ông thy bt rn đi x mt cách đc ác, vì như chuyn k,

‘Ta đang sng trong Pháp
Gi gii Bát quan trai
Thy rn ti bt ta
Din trò ti cng thành
Màu sc nào hn nghĩ,
Màu xanh, vàng hay đ,
Tùy theo ý hn nghĩ
Ta biến màu hn mun;
Ta biến đt thành nước,
Và biến nước thành đt.
Nếu như ta ni gin
Ta có th đt cháy
Khiến y thành tro tàn,
Nếu không làm ch tâm
Ta đã làm hng gii;
Và ai làm hng gii
Không th nào đến đích.’

Còn khi ngài làm Long Vương Sakhapāla, lúc b gánh đi trên mt cây sào bi mười sáu cu bé trong làng sau khi chúng đã dùng nhng mũi giáo nhn đâm ngài b thương tám ch và nhét dây gai vào ming vết thương, chúng còn làm cho ngài đau đn, qun qui khi x mt si dây rn chc qua mũi ngài và kéo lê đ cho thân ngài va vào mt đt, mc dù ch cn liếc mt cái ngài có th biến nhng đa tr y thành than, song ngài thm chí không t chút du vết sân hn nào trên đôi mt, vì như chuyn k:

‘ Này Ālāra,
Ngày mười bn, mười lăm,
Ta thường gi Trai Gii,
Mười sáu đa bé đến
Mang theo dây và giáo.
Chúng tách mũi ta ra,
Và qua khe h đó
Chúng lun vào si dây
Kéo lê ta như thế,
Dù đau đn, qun qui,
Ta không đ sân hn
Quy đng ngày trai gii.’
(Jā.v, 172)

Ngài đã thc hin không ch nhng điu kỳ diu y mà còn nhiu điu kỳ diu khác như đã được k trong Mātuposaka Jākata (Jā, iv,90). Bây gi, mc đ cao nht s là không thích hp và không xng đáng đ cho mi khi lên nhng ý nghĩ tc gin, bi l mi đang c gng đ được ging như v Đo Sư ca mi, rng Đc Thế Tôn đã đt đến Toàn Giác và là bc có đc kham nhn đc bit không ai sánh bng trong thế gian vi các hàng chư thiên ca nó.

Nhưng nếu, khi hành gi đã suy xét đến nhng phm cht đc bit trong cách ng x trước đây ca bc Đo Sư, mà s tc gin vn không lng xung, bi vì t lâu hành gi đã quen làm nô l cho nhng phin não, thi hành gi nên hi tưởng đến các bài kinh(Sutta) đ cp đến s vô th (không khi đu) ca vòng sinh t luân hi.

Đây là nhng gì Kinh nói :

‘ Này các Tỳ kheo, không d gì tìm được mt chúng sinh nào trước đây chưa tng là m ca các ông, là cha ca các ông, là anh ca các ông, là ch ca các ông, là con trai ca các ông, là con gái ca các ông’ (S.ii, 189-190)

Do vy, hành gi nên nghĩ v người đó như vy :

‘Hình như người này, khi là m ta trong quá kh đã mang ta trong bào thai c mười tháng trường và đã lau chùi phân, nước tiu,   nước rãi, nước mũi v.v... cho ta không h nhm gm, coi đó như th trm hương vàng, và đ ta đùa chơi trên lòng bà, cho ta bú mm, bng bế ta đi đây đó. Và người này khi là cha ta đã phi đi trên nhng con đường mòn dê đi và nhng con đường làm trên nhng ct tr cheo leo , v.v... đ theo đui vic buôn bán, đã vì ta mà liu mng đi vào trong chiến trn gia hai hàng quân, hay trên nhng chiếc tàu vượt đi dương và làm nhng vic khó khăn khác. Bng phương tin này hay phương tin khác, ông đã đem ca ci v nhà nghĩ là đ nuôi dưỡng con cái. Và khi là anh, là ch, là con trai, con gái ca ta, người này đã giúp ta vic này, vic n. Vì thế, tht không xng đáng cho ta đ ôm p oán thù người y trong tâm.’

Nhưng nếu hành gi vn không th dp tt ý nghĩ đó theo cách trên, hành gi nên ôn li nhng li ích ca tâm t như thế này : Bây gi, mi là người xut gia, chng phi Đc Thế Tôn đã nói như sau :

‘ Này các Tỳ kheo, khi t tâm gii thoát được trau di, tu tp, được thc hành thường xuyên, được làm cho thành c xe, làm cho thành nn tng, được thiết lp, cũng c vng chc, và th trì thích hp, mười mt phước báu có th trông đi. Thế nào là mười mt ? Người y ng trong an lc, thc trong an lc, không có nhng ác mng, người y thân ái đi vi mi người, thân ái đi vi các hàng phi nhân, chư thiên h trì người y, la, thuc đc, và vũ khí không làm hi được người y, tâm d đc đnh, v mt an tnh, chết không ri lon, nếu không đc cao hơn, v y s tái sanh vào cõi Phm Thiên’(A.v, 342)

Nếu không chm dt nhng ý nghĩ him hn, k như mi ph nhn nhng li ích này vy.

Nhưng nếu hành gi vn không chm dt (sân hn) theo cách va nói, hành gi nên c phân gii thành các yếu t. Như thế nào ? Bây gi mi, người đã xut gia, khi mi tc gin hn, mi tc gin vi cái gì ? Phi chăng mi tc gin tóc ? Hay lông ? Hay móng (tay, chân) ? Hay mi tc gin nước tiu ? Hoc, phi chăng mi tc gin yếu t đt (đa đi) trong tóc v.v... ? Hay yếu t nước ? Hay yếu t la ? Hay phi chăng mi tc gin yếu t gió ? Hay trong s năm un hay mười hai x hay mười tám gii mà vi nhng yếu t đó v này được gi bng tên như vy, như vy, thì cái nào, có phi mi tc gin sc un ? Hay th un ? Hay tưởng un ? Hay hành un ? Hay thc un ? Hay có phi mi tc gin nhãn x? Hay sc x ? Hay mi tc gin ý x ? Hay mi tc gin ý x ? Hay mi tc gin pháp x? Hay phi chăng mi tc gin nhãn gii? Hay phi chăng mi tc gin ý gii? Hay pháp gii? Hay ý thc gii? Vì khi hành gi c phân gii thành các yếu t, s tc gin ca hành gi không th tìm thy ch đng, ging như ht ci (đt) trên đu mũi dùi hay bc v trên hư không.

Nhưng nếu hành gi không th thc hin s phân gii thành các yếu t được, hành gi nên c gng tng mt món quà. Món quà có th do bn thân ca hành gi tng cho người kia hay t mình chp nhn món quà ca người kia. Tuy nhiên nếu s nuôi mng (sinh kế) ca người kia không thanh tnh và nhng món vt dng ca h không thích hp đ s dng, thì chính hành gi phi là người cho. Và nơi người làm điu này s khó chu đi vi người kia s hoàn toàn lng xung. Và nơi người kia ngay c s oán hn đã tng bám sát h t đi kiếp trước lúc đó cũng h xung ngay, như đã xy ra đi vi ngài trưởng lão cao h, người đã nhn được mt bát nước trao cho ngài ti tu vin Cittalapabbata do mt v trưởng lão thp h chuyên ăn trong bát [1] người đã ba ln b ông ta làm cho phi ri ch trú ng, và v trưởng lão này đã dâng tng cái bát y vi nhng li này, ‘Bch ngài, cái bát này đáng giá tám ducats đã được m tôi, mt tín n, dâng cúng và nó được nhn mt cách chính đáng, mong cho tín n hin thin y có được phước báu.’
Chú thích: [1] Chuyên ăn trong bát đây mun ám ch mt v tu pháp kh hnh, ch ăn nhng đ ăn kht thc trong bình bát mà thôi.

Hành đng dâng tng hay b thí này thc là có hiu qu. Và điu này đã được nói như sau:

‘Tng quà (đ) thun hóa k chưa thun,
Tng quà cho ta mi s tt lành;
Nh tng quà (mà) tình thế bt căng,
Và h mình đ nói li t tế.’

Trên đây là nhng gì được đưa ra trong Thanh Tnh Đo liên quan đến vic làm thế nào đ loi tr sân hn. Tuy nhiên ch khi hành gi đc Bt Lai Thánh Đo, lúc đó sân mi không còn khi lên na mà thôi.

III. Hôn trm và thy miên

Trong Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh), Đc Pht đưa ra mt hình nh đ minh ha hôn trm và thy miên như sau:

“ Nếu có mt lu nước, ph trùm vi rêu và thy to, mt người vi th lc bình thường, nhìn vào lu nước y, không th nhn ra và đúng vi hình nh ca khuôn mt mình.  Cũng vy, khi tâm b ám nh bi hôn trm và thy miên, hành gi không th thy mt cách đúng đn li thoát khi hôn trm và thy miên đã sanh; vì lý do đó hành gi không th thy và hiu đúng li ích ca bn thân, không thy và hiu đúng li ích ca k khác, không thy và hiu đúng li ích ca c hai; nhng pháp hành gi đã thuc lòng trước đây còn không đi vào tâm (không nh được) nói gì đến nhng pháp không thuc.’

Trong Eka-Nipāta ca Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh), Đc Pht nói như thế này:

‘ Này các Tỳ Kheo, Ta không thy mt pháp nào khác có sc mnh khiến cho hôn trm và thy miên chưa sanh, sanh khi, hoc, nếu đã sanh, khiến cho mnh m và tăng trưởng, như không hăng hái, lơ đãng, bie61ng nhác dài thây, bun ng sau khi ăn và tâm trí th đng.’

Nơi người nào tâm trí th đng, hôn trm và thy miên nếu chưa sanh, s sanh khi, hoc nếu đã sanh, được mnh m và tăng trưởng.’

‘Này các Tỳ kheo, Ta không thy mt pháp nào khác có sc mnh ngăn hôn trm và thy miên, nếu chưa sanh, không cho sanh khi, nếu đã sanh, khiến cho được đon tr, như yếu t khơi dy ngh lc ca mt người (tinh cn gii), yếu t khơi dy s n lc (tinh tn gii), yếu t khơi dy s n lc liên tc ca mt người (dõng mãnh gii).

Nơi người nào phn đu mt cách đy ngh lc, hôn trm và thy miên chưa sanh, s không sanh,hôn trm và thy miên nếu đã sanh, được đon tr.’

Chú gii kinh Đi Nim X (Mahā Satipaṭṭthāna Sutta) tuyên b rng có sáu pháp đưa đến s đon tr ca hôn trm và thy miên:

Biết rng ăn quá no là mt nguyên nhân gây ra hôn trm và thy miên.
Thay đi oai nghi;
Nghĩ v tướng ánh sáng;
nơi thoáng khí;
Bn lành;
Nói chuyn thích hp.

Nhng pháp sau cũng hu ích trong vic khc phc hôn trm và thy miên:

1. Nim s chết

Như: ‘ Hôm nay nhit tâm làm; ai biết chết (s đến) ngày mai?’

2. Tưởng kh trong vô thường

Như đã được nói trong kinh Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh): ‘Nơi v Tỳ kheo quen thy kh trong vô thường và thường xuyên áp dng pháp quán này, thi mt ý thc thm thía v s nguy him ca lười biếng, d duôi, lơ đãng, th đng và vô tư l s được thiết lp nơi v y, như th v y đang b đe da bi mt tên sát nhân vi thanh kiếm đã rút ra vy.’

3. (Hoan) h:

Như đã nói trong Tương Ưng Kinh (Sayatta Nikāya): ‘ Khi tâm chm chp, không nhanh nhn, thì đó không phi là lúc thích hp đ tu tp các chi phn giác ng sau: tnh giác chi, đnh giác chi và x giác chi, bi vì mt cái tâm không nhanh nhn khó có th khơi dy được bng các chi phn y vy.’

4. Quán tưởng v cuc hành trình tâm linh:

Như đã tuyên b trong Thanh Tnh Đo: ‘ Ta phi bước đi trên con đường đó, con đường mà chư Pht, chư Pht Đc Giác và các bc Thánh Đ T đã đi; nhưng nếu là mt con người biếng nhác thì làm sao có th bước đi trên con đường đó được.’

5. Quán tưởng v s vĩ đi ca Bc Đo Sư:

Như đã tuyên b trong Thanh Tnh Đo: ‘ Dc hết tinh tn lc đã được Bc Đo Sư ca ta khen ngi, và trong s ch dn và giúp đ đ t không có ai sánh bng Ngài. Ngài được tôn kính nh thc hành Pháp (Dhamma), ch không bng gì khác.’

6. Quán tưởng v s vĩ đi ca di sn Giáo Pháp:

Như đã tuyên b trong Thanh Tnh Đo: ‘Ta phi tr thành người ch s hu ca di sn vĩ đi, gi là Diu Pháp này, còn người lười biếng không th nào nm gi Giáo Pháp.’

7. Làm thế nào đ khích l tâm:

Như đã tuyên b trong Thanh Tnh Đo: Hành gi khích l tâm như thế nào lúc tâm cn khích l? Nếu do chm chp trong vic áp dng trí tu hay do chưa đt đến lc ca khinh an, tâm ca hành gi cùn nht không sc bén, thì hành gi nên đánh thc nó bng s hi tưởng li tám pháp đng (tâm). Tám pháp đó là: sanh, hoi, bnh và chết; cái kh trong các cõi kha ngc, ng qu, súc sinh...);cái kh ca sanh t luân hi trong quá kh, cái kh ca sanh t luân hi trong tương lai, cái kh hin ti gc vic phi tìm kiếm thc ăn.

8. Làm thế nào đ vượt qua hôn trm

Mt thu n Đc Thế Tôn nói vi Tôn gi Mc Kin Liên như vy: ‘Này Mc Kin Liên, có phi ông ng gt? Này Mc Kin Liên, có phi ông ng gt?’ – ‘Thưa vâng, bch Đc Thế Tôn.’

‘ (1) Vy thì, này Mc Kin Liên, bt c khi nào ý nghĩ bun ng xy đến, ông không nên tác ý đến ý nghĩ y, ông không nên thường xuyên trú trong ý nghĩ y. Nh làm như vy, có th cơn bun ng s biến mt.’

‘ (2) Nhưng nếu làm như vy mà cơn bun ng không biến mt, ông nên nghĩ tưởng và suy xét trong tâm v Pháp (Dhamma) như ông đa được nghe và hc nó, và ông nên ôn li trong tâm pháp y. Nh làm như vy, cơn bun ng s biến mt.’

‘ (3) Nhưng nếu làm như vy mà cơn bun ng không biến mt, ông nên hc thuc lòng Pháp (Dhamma) vi tng chi tiết ca nó, như ông đã được nghe và hc, và ông nên ôn li trong tâm pháp y. Nh làm như vy, có th cơn bun ng s biến mt.

‘ (4) Nhưng nếu làm như vy mà cơn bun ng không biến mt, ông nên lc l tai, và chà xát chân tay vi lòng bàn tay ca ông. Nh làm như vy, có th cơn bun ng s biến mt.

‘ (5) Nhưng nếu làm như vy mà cơn bun ng không biến mt, ông nên đng dy, ri khi ch ngi, và sau khi ra mt vi nước mát, ông nên nhìn quanh các hướng và nhìn lên các vì sao trên bu tri. Nh làm như vy, có th cơn bun ng s biến mt.’

‘ (6) Nhưng nếu làm như vy mà cơn bun ng không biến mt, ông nên thiết lp vng chc tưởng ánh sáng: ngày như thế nào,đêm cũng như vy; đêm như thế nào, ngày cũng như vy. Vi mt cái tâm trong sch và không b tc nghn như thế, ông nên tu tp mt ý thc đy đ sáng sut. Nh làm như vy, có th cơn bun ng s biến mt.’

‘ (7) Nhưng nếu làm như vy mà cơn bun ng không biến mt, ông nên nhn biết đâu là phía trước,đâu là phía sau, đi lên và đi xung, vi các căn hướng bên trong, vi tâm không đi ra ngoài. Nh làm như vy, có th cơn bun ng s biến mt.’

‘ (8) Nhưng nếu làm như vy mà cơn bun ng không biến mt, ông có th nm xung bên hông phi, trong thế nm ca con sư t, chân này trên chân kia –chánh nim, và tnh giác, gi trong tâm ý nghĩ đng dy. Sau khi đã thc dy, ông phi nhanh chóng đng lên, nghĩ rng, “Ta s không đm chìm trong s hưởng th thú nm và ta, trong s hưởng th ng ngh!”

‘ Này Mc Kin Liên, ông hãy nên hc tp như vy!’

9. Suy xét v năm nguy him đang đe da

Trong Cun Năm ca Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh), Đc Pht nói rng có năm nguy him đang đe da:

‘ Này các Tỳ kheo, nếu v Tỳ kheo nào nhìn thy năm nguy him đang đe da này, tht là va đ cho v y đ sng không d duôi, nhit tâm, vi tâm quyết đnh thành tu nhng gì chưa thành tu, đt đến nhng gì chưa đt đến, chng ng nhng gì chưa chng ng. Năm nguy him y là gì?’

‘ (1) đây, này các Tỳ kheo, v Tỳ kheo suy xét như vy: “ Bây gi ta còn tr, còn thanh niên, tui tr, tóc đen nhánh, trong tui thanh xuân, trong giai đon đu ca cuc đi. Nhưng mt thi nào đó s đến khi mà thân xác này s b gò bó trong tui già. Mà người b tui già khut phc thì không d gì suy tưởng nhng Li Dy ca Đc Pht, tht không d cho người ta đ sng trong nhng nơi hoang vu hay rng núi, hay trong nhng ch ho lánh. Trước khi tình trng không ai mun này,tình trng không đáng ưa, không va ý này, đến vi ta, trước khi đó, ta hãy thu hết ngh lc đ thành tu nhng gì chưa thành tu, đt đến nhng gì chưa đt đến, chng ng nhng gì chưa chng ng, nh chng đt trng thái đó ta s sng an vui, dù có b già.”

‘ (2) Li na, này các Tỳ kheo, v Tỳ kheo suy xét như vy: “Bây gi ta không m đau, không bnh tt, kh năng tiêu hóa ca ta làm vic trơn tru, th cht ca ta không quá lnh và không quá nóng, được quân bình và thích hp cho vic n lc tinh tn. Nhưng mt thi nào đó s đến khi mà thân này b gò bó trong bnh tt. Mà người b m đau bnh tt thì không d gì suy tưởng nhng Li Dy ca Đc Pht, tht không d cho người ta đ sng trong nhng nơi hoang vu hay rng núi, hay trong nhng ch ho lánh. Trước khi tình trng không ai mun này,tình trng không đáng ưa, không va ý này, đến vi ta, trước khi đó, ta hãy thu hết ngh lc đ thành tu nhng gì chưa thành tu, đt đến nhng gì chưa đt đến, chng ng nhng gì chưa chng ng, nh chng đt trng thái đó ta s sng an vui, dù có b bnh.”

‘ (3) Li na, này các Tỳ kheo, v Tỳ kheo suy xét như vy, “ Bây gi có được di dào thc phm, mùa màng tươi tt, d nhn được đ ăn kht thc và ca cúng dường. Nhưng mt thi nào đó s đến khi mà nn đói, mùa màng hưn hng, s khó mà có được mt ba ăn kht thc, khó mà sng được nh kht thc và khó mà có các ca cúng dường. Và trong nn đói người ta phi di cư đến nhng nơi đây thc phn được thoi mái, và nơi đó s trú ng s b t tp li đông đúc. Mà ch nào s trú ng b t tp li đông đúc người ta không d gì suy tưởng nhng Li Dy ca Đc Pht; tht không d cho người ta sng trong nhng nơi hoang vu hay rng núi, hay trong nhng ch ho lánh. Trước khi tình trng không ai mun này,tình trng không đáng ưa, không va ý này, đến vi ta, trước khi đó, ta hãy thu hết ngh lc đ thành tu nhng gì chưa thành tu, đt đến nhng gì chưa đt đến, chng ng nhng gì chưa chng ng, nh chng đt trng thái đó ta s sng an vui, dù có b nn đói.”

‘ (4) Li na, này các Tỳ kheo, v Tỳ kheo suy xét như vy, “ Bây gi con người sng trong hòa hp và tình thân thin, sng trong tình bn bè hu ngh như sa hòa trong nước và nhìn nhau vi cp mt thin cm. Nhưng mt thi nguy him s đến, tình trng náo đng gia các b tc khi dân chúng phi leo lên xe đ chy trn và nhng người lâm vào cnh s hãi phi di chuyn đến nhng nơi an toàn, và đó s trú ng s b t tp li và đông đúc. Mà ch nào s trú ng b t tp li và đông đúc người ta không d gì suy tưởng nhng Li Dy ca Đc Pht; tht không d cho người ta sng trong nhng nơi hoang vu hay rng núi, hay trong nhng ch ho lánh. Trước khi tình trng không ai mun này,tình trng không đáng ưa, không va ý này, đến vi ta, trước khi đó, ta hãy thu hết ngh lc đ thành tu nhng gì chưa thành tu, đt đến nhng gì chưa đt đến, chng ng nhng gì chưa chng ng, nh chng đt trng thái đó ta s sng an vui, dù có sng vào thi nguy him.”
 
‘ (5) Li na, này các Tỳ kheo, v Tỳ kheo suy xét như vy, “ Bây gi Tăng Chúng (đoàn th các v Tỳ kheo ) sng trong hòa hp và tình thân thin, không cãi nhau, sng an vui dưới mt giáo lý. Nhưng mt thi s đến khi có s chia r trong Tăng Chúng. Và khi Tăng Chúng b chia r người ta không d gì suy tưởng nhng Li Dy ca Đc Pht; tht không d cho người ta sng trong nhng nơi hoang vu hay rng núi, hay trong nhng ch ho lánh. Trước khi tình trng không ai mun này,tình trng không đáng ưa, không va ý này, đến vi ta, trước khi đó, ta hãy thu hết ngh lc đ thành tu nhng gì chưa thành tu, đt đến nhng gì chưa đt đến, chng ng nhng gì chưa chng ng, nh chng đt trng thái đó ta s sng an vui, ngay c khi Tăng Chúng b chia r.”

Trong kinh Cara Sutta ca B Itivuttaka, Đc Pht đưa ra mt đnh nghĩa rt rõ ràng v mt v Tỳ kheo lười biếng và mt v Tỳ kheo siêng năng. Trong bài kinh y, Ngài nói như sau:

‘ Này các Tỳ kheo, nếu trong khi đang đi, mt ý nghĩ tham dc hay mt ý nghĩ sân hn hay mt ý nghĩ đc ác khi lên nơi mt v Tỳ kheo, và nếu v y không có phn kháng, không có b đi, không có xua đui, không có loi tr và đưa nó đến ch chm dt, v Tỳ kheo vi thái đ như vy là thiếu nhit tâm và không s hãi làm điu bt thin, v Tỳ kheo y được gi là lười biếng không ngng và thường xuyên th đng. Nếu trong khi đang đng... Nếu trong khi đang ngi... Nếu trong khi đang nm, mt ý nghĩ tham dc hay mt ý nghĩ sân hn hay mt ý nghĩ đc ác khi lên nơi mt v Tỳ kheo, nếu v Tỳ kheo không chp nhn nó, b đi, xua đui, loi tr và đưa nó đến ch chm dt, v Tỳ kheo vi thái đ như vy là có nhit tâm và biết s hãi làm điu bt thin, và được gi là tinh tn  không ngng và cương quyết không ngng. ‘

Dù khi đi hay đng
Dù khi ngi hay nm
Ai nghĩ nhng ý nghĩ
Đc ác và trn tc-
Thi đang theo tà đo,
Cung di vi si pháp.
V Tỳ kheo như vy
Không th nào đt đến
S Giác ng ti cao.

Dù khi đi hay đng
Dù khi ngi hay nm
Ai dit nhng ý y
Vui thích trong vic dit (nhng tà ý)
V Tỳ kheo như vy
S có ngày đt đến
S Giác ng ti cao.

Là mt v Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, quý v được nhng người cư sĩ h đ. Lãng phí cuc đi sau khi th dng vt thc do tín thí cúng dường là mt điu đáng h thn. Như quý v phi c gng có được tinh tn lc như Đc Pht đã nói.


Hoài nghi

Trong Tăng Chi Kinh (Anguttara Nikāya), đã đưa ra mt hình nh đ minh ha hoài nghi như sau:

‘ Nếu có mt bình nước b vn đc, b khuy đng và đy bùn, cái bình này được đt ch tôí tăm, ri mt người có th lc bình thường, nhìn vào bình, không th nào nhn ra và thy đúng được khuôn mt ca mình trong nước bùn đó. Cũng vy, khi tâm b ám nh bi hoài nghi, b áp đo bi hoài nghi, người ta không th nào thy đúng được li thoát khi hoài nghi đã được khi lên y ; và như vy h cũng không th hiu đúng và thy đúng s li ích ca bn thân, li ích ca người khác, và li ích ca c hai ; nhng pháp đã thuc lòng trước đây còn không đi vào tâm (không còn nh được) nói gì đến nhng pháp không thuc.’

Còn trong Eka- Nipāta ca Anguttara Nikāya ( Tăng Chi Kinh ), Đc Pht nói như vy :

‘ Này các Tỳ kheo, Ta không biết mt pháp nào có sc mnh như vy, khiến cho hoài nghi chưa sanh, sanh khi, hoc hoài nghi nếu đã sanh, được mnh m và tăng trưởng như phi lý tác ý.

Nơi người nào không có như lý tác ý, hoài nghi chưa sanh, s sanh khi, hoc hoài nghi đã sanh, có th tr nên mnh m và tăng trưởng.’

‘ Này các Tỳ kheo, Ta không biết mt pháp nào khác có sc mnh như vy, ngăn được s sanh khi ca hoài nghi, nếu chưa sanh, hoc hoài nghi, nếu đã sanh khiến cho được đon tr, như như lý tác ý.’

‘ Nơi người nào có như lý tác ý thi hoài nghi không sanh, hoc nếu đã sanh, nó s được đon tr.’

Trong sáu pháp dn đến s đon tr ca hoài nghi, ba pháp đu và hai pháp cui ging vi nhng pháp đã đưa ra trong hôn trm và thy miên. Riêng pháp th tư được gii thích như sau :

Có nim tin vng chc nơi Đc Pht (Buddha), Giáo Pháp (Dhamma), và Chư Tăng (Shaga).

Hành gi có th trc xut được hoài nghi nh sáu pháp này, như cui cùng ch khi hành gi đc tng thánh th nht (Tu-đà-hoàn Đo) tuyt dit hoài nghi thì nó mi không khi lên trong tương lai na mà thôi.’

Nhng đon trích t Kinh Sa môn Qu   (Sāmaññaphala Sutta) ca Trường B Kinh (Dīghā Nikāya ) và Chú gii

Trước hết tôi s đưa ra đây mt đon trích t kinh Sa môn Qu (Samaññaphala Sutta), đây Đc Pht nói vi đc vua A-xà-thế (Ajātasatu) như vy :

‘ Sau khi đã t b tham ái đi vi thế gian, v y sng vi tâm không tham ; gt ra tâm hết tham ái. Sau khi đã t b hết sân hn, v y sng vi tâm qung đi, cm thông vi tt c s an vui hnh phúc ca tt c chúng sinh ; gt ra hết tâm sân hn. Sau khi đã t b hôn trm và thy miên, v y sng vi tưởng ánh sáng, chánh nim và tnh giác ; v y gt ra hết hôn trm và thy miên. Sau khi đã t b hôn trm và hi hn, v y sng thoi mái vi chính mình, vi mt cái tâm bình lng ; v y gt ra hết tro c và hi hn. Sau khi đã t b hoài nghi, v y sng như người đã thoát b nghi, không lưỡng l đi vi nhng thin pháp ; v y gt ra tâm hết hoài nghi.’

‘ Thưa đi vương,gi s có người đi vay n và dùng nó vào vic kinh doanh ca mình, và công vic ca anh ta thành công, nh thế anh ta có th tr hết n cũ và tin còn li đ đ nuôi dưỡng v con. Người y suy xét v điu này và nh vy cm thy hài lòng, sung sướng.’

‘ Li na, thưa đi vương, gi s có mt người b bnh, m đau trm trng, đau đn, vì thế mà người y không th thưởng thc các món ăn và sc khe suy yếu. Sau mt thi gian người y khi bnh, thưởng thc được các món ăn và phc hi th lc. Người y suy xét v điu này và nh vy cm thy hài lòng, sung sướng.’

‘ Li na, thưa đi vương, gi s có mt người b giam trong tù. Sau mt thi gian người y được th ra khi nhà tù, an toàn, an n, không có mt mát tài sn. Người y suy xét v điu này, và nh vy người y cm thy hài lòng, sung sướng.’

‘ Li na, thưa đi vương, gi s có mt người b làm nô l, không được t ch, phi phc v cho nhng người khác, không th đi nơi nào hn mun. Sau mt thi gian, người y được phóng thích khi cnh nô l và ly li quyn t ch ca mình ; người y không còn phi phc v cho nhng người khác na mà là mt con người t do có th đi nơi đâu hn mun đi. Người y suy xét v điu này và nh vy cm thy hài lòng, sung sướng.’

‘ Li na, thưa đi vương, gi s mt người mang theo ca ci và tài sn đi ngang qua sa mc. đây, thc phm khan hiếm và nhng nguy him li rt nhiu. Sau mt thi gian, người y vượt qua được sa mc và v đến làng an toàn, an n, không có him nguy. Người y suy xét v điu này và nh vy cm thy hài lòng, sung sướng.’

‘ Tương t như vy, thưa đi vương, khi mt v Tỳ kheo thy rng, năm trin cái này chưa được đon tr trong t thân, người y xem đó như mt người mang n, như người bnh, như b giam hãm trong tù, như k nô l, và như mt con đường nguy him.’

‘ Nhưng khi v y thy rng năm trin cái này đã được đon tr trong t thân, v y xem đó như thoát khi n nn, như người lành mnh, như thoát khi tù ti, như thoát kiếp nô l, và như mt nơi an toàn vy.’

‘ Khi v y thy rng, năm trin cái đã được đon tr trong t thân, hân hoan sanh. Khi v y được hân hoan, h sanh. Khi tâm v y tràn đy vi h, thì thân tr nên khinh an ; do thân khinh an, v y cm nghim được lc th, do lc, tâm v y tr nên đnh tĩnh.’

‘ Hoàn toàn ly dc, ly các bt thin pháp, v y nhp vào và an trú trong sơ thin, nh thin, tam thin, t thin.’

Đến đây, tôi s đưa ra cho quý v nhng trích đon t chú gii, gii thích nhng ví d v năm trin cái và s đon tr ca chúng như đã đ cp trong các đon trên :

Người đi vay n người khác và xài tiêu xài hoang phí hết món tin đó thì không th bo v được mình khi ch n đến đòi, h s nói năng vi anh ta mt cách khó nghe, hoc h s trói anh ta li và đánh đp anh ta ; anh ta phi chu đng tt c nhng chuyn này, và món n là lý do anh ta phi chu đng nó.

Tương t, nếu mt người khi lên tham dc đi vi người khác và ly (người y ) làm đi tượng ca tâm tham, thi y phi hoàn toàn chu đng khi người y nói vi y mt cách khó nghe, hay khi người đó trói và đánh đp y ; và lòng dc ca y là lý do khiến y phi chu đng điu đó. Mt ví d là trường hp ca nhng người ph n b đánh đp bi nhng gia ch (chng ca h). Như vy tham dc phi được xem như món n.

Mt người, sau khi đã vay n, dùng nó vào vic kinh doanh ca mình và được thành công. Anh ta nghĩ, ‘ Món n này là mt tr ngi chính,’ vì thế anh ta tr hết món n cùng vi tin li và xé b giy hn tr n. T đó tr đi, không ai gi giy báo hay thư (nhc anh ta v món n) na. Khi anh ta thy người ch n, anh ta có th đng dy hay c ngi yên trên ghế ca mình, tùy thích. Ti sao  vy ? Vì anh ta không còn ràng buc vào h, không còn b l thuc vào h na. Tương t, mt v Tỳ kheo nghĩ, ‘ Tham dc là tr ngi chính,’ vì thế v y tu tp sáu pháp và đon tr dc tham trin cái.   Khi v y đon tr được dc tham trin cái như vy, lúc đó cũng như người thoát n, không còn cm thy s hãi, lo âu khi nhìn thy ch n như thế nào, v Tỳ kheo cũng không cm thy dính mc hay ràng buc đi vi bt kỳ ngoi cnh nào như thế. Cho dù v y có thy nhng hình dáng đp tuyt trn thì phin não cũng không tn công v y. Do đó, Đc Thế Tôn mi nói rng đon tr dc tham cũng ging như thoát khi n nn vy.

Người b kh s vi chng bnh đau mt, nếu có được người ta cho nhng món như mt ong và đường, anh ta cũng s không thưởng thc được hương v ca chúng do bnh đau mt ca mình. Thm chí anh ta nh nhng món y ra vì nghĩ chúng đng. Tương t, nếu mt người vi ni tâm sân hn được v thy có lòng t mn giáo gii dù ch qua loa thôi, y cũng s không chp nhn li giáo gii y. Thm chí còn bác b nó, nói rng, ‘ Thy đã áp bc tôi quá nhiu ri !’ và b đi. Cũng như người b kh s vì chng đau mt không th thưởng thc được hương v mt ong như thế nào, người b kh s vi sân hn cũng thế, không th thưởng thc được hương v giáo pháp ca Đc Pht, đó là, lc ca bc thin (Jhāna)... Vì vy, sân hn phi được xem như mt chng bnh.

Mt người kh s vi bnh đau mt biết chế ng bnh y bng cách ung thuc. T đó tr đi anh ta thưởng thc được hương v ca nhng th như mt ong và đường. Tương t, mt v Tỳ kheo (Bikkhu) nghĩ, ‘ Sân hn là nguyên nhân chính ca tai ha,’ vì thế,v y tu tp sáu pháp và đon tr được sân trin cái. Khi v y đã đon tr được sân hn, thì người khi bnh đau mt ăn được nhng th như mt ong hay đường và thích thú vi hương v ca chúng như thế nào, vì Tỳ kheo cũng vy. Sau khi thành kính tiếp nhn nhng hc gii như nhng công b liên quan đến cách cư x (hnh), v y hc tp chúng và thích thú chúng. Do đó, Đc Thế Tôn mi nói rng s đon tr sân hn cũng ging như được sc khe tt vy.

Vào ngày l hi, mt người b nht trong tù không th thy được đon đu, đon gia và đon cui ca l hi. Nếu như hôm sau y được th ra, và nghe người ta nói, ‘ , hôm qua có mt l hi tht là vui ! Vi nhng điu múa, nhng bài hát như vy ! ‘ Y không th tr li gì được. Lý do ti sao ? Bi vì bn thân y không có tham d l hi. Tương t, nếu mt v Tỳ kheo b hôn trm và thy miên áp đo khi bui thuyết Pháp (Dhamma) nói v nhng pháp môn khác nhau din ra, v y không th hiu đon đu, đon gia và đon cui ca bài Pháp. 

Khi bui thuyết Pháp chm dt, v y nghe mi người tán dương thi Pháp, ‘ , tht là mt thi Pháp tuyt diu ! vi nhng lý l và nhng ví d như vy, như vy !’ nhưng v y không th đưa ra mt câu tr li. Vì lý do gì ? Vì v y b hôn trm và thy miên chiến thng và không th thưởng thc được thi Pháp. Vì thế hôn trm và thy miên phi được xem như b giam hãm trong tù vy.
 
Mt người b nht trong tù vào mt ngày l hi. Vào ngày l hi sau, y nghĩ, ‘Trước đây do d duôi, ta đã b nht trong tù, và vì vy ta không thưởng thc được l hi. Bây gi ta s thn trng lưu ý.’ Như vy người y tr nên thn trng, vì thế mà nhng k xu không có cơ hi (đ làm cho y b tù). Sau khi thưởng thc l hi, y tht lên nhng li vui sướng, ‘ , tht là mt l hi tuyt vi ! , tht là mt l hi tuyt vi !’ Tương t, mt v Tỳ kheo nghĩ, ‘ Hôn trm và thy miên là nguyên nhân chính ca tai ha,’ vì thế v y tu tp sáu pháp và đon tr được thy miên, thì, như người thoát khi tù ti, thưởng thc được đon đu, đon gia và đon cui ca Pháp (Dhamma) và chng đc Thánh Đo cùng vi t tu phân tích. Do đó, Đc Thế Tôn mi nói rng s đon tr hôn trm và thy miên cũng ging như thoát khi tù ti vy.

Mt người nô l, ngay c khi vui chơi ti mt l hi, cũng có th b ch nhân sai bo, ‘Này có công vic khn cp cho mi làm đây. Hãy đi đến đó nhanh lên ! Nếu mi không đi, ta s cht chân,cht tay mi, ta s ct tai, ct mũi mi đy !’ Như vy y phi nhanh chóng mà đi và không được thưởng thc đon đu, đon gia và đon cui ca l hi. Vì sao ? Vì y phi phc tùng cho nhng người khác vy. Tương t, khi mt người không thin xo trong Lut (Vinaya) đi vào rng sng đc cư (hành thin), v y có th mc phi mt gii ti nh nào đó, ngay c nhn tht không được phép (th dng) là tht được phép (th dng). Thế là v y phi t b s đc cư ca mình. Vì sao ? Vì v y b tro c và hi hn áp đo. Như vy tro c và hi hn phi được xem như tình trng nô l.

Mt người nô l, vi s giúp đ ca mt người bn, đưa tin cho ch nhân ca y và gii thoát y khi tình trng nô l. T đó tr đi, y có th làm nhng gì tùy ý mun ca y. Tương t, v Tỳ kheo nghĩ, ‘ Tro c và hi hn là nguyên nhân chính ca tai ha,’ vì thế, vì y tu tp sáu pháp và đon tr được tro c và hi hn. Khi v y đã đon tr được tro c và hi hn, thì, cũng như người được t do có th làm nhng gì mình mun không ai có th dùng vũ lc ngăn không cho h làm điu đó, v Tỳ kheo cũng vy, an vui thc hành gii thoát đo, và tro c và hi hn không th dùng sc mnh ngăn cn không cho v y làm điu đó. Vì thế Đc Thế Tôn mi nói rng s đon tr tro c và hi hn cũng ging như thoát khi tình trng nô l vy.

Mt người đi trên con đường hoang vng, sau khi đã nhìn thy nguy cơ do nhng tay đo tc nh ra giết người, tr nên lo lng và s hãi, ngay c âm thanh xào xc ca mt cành cây hay ca mt con chim y cũng nghĩ rng, ‘Nhng tay đo tc đã đến !’ Y đi ti mt chút, dng li, ri xoay lưng. C như thế sut cuc hành trình nhng ch y dng nhiu hơn c nhng ch y đi. Y v đến nơi an toàn vi đy lo lng và khó khăn, hoc có th y hoàn toàn không v được đến nơi na là khác. Tương t, nếu hoài nghi v tám trường hp đã khi lên nơi mt người, y s tiếp tc hoài nghi, không hiu ‘Bc Đo Sư có Giác Ng hay không ?’ và s không th nào gii quyết (nghi) và chp nhn nó vi nim tin. Do không th nào quyết nghi và chp nhn vi nim tin, người y không đt đến đo và chp nhn vi nim tin, người y không đt đến đo và qu.  Như vy, cũng như người l hành trên hoang l, hoài nghi không biết co nhng tay đo tc hay không, c liên tc ni lên tình trng lưỡng l và do d, thiếu nim tin và hong s, to ra mt chướng ngi trong vic đi đến nơi an toàn ca anh ta thế nào, v Tỳ kheo cũng vy, do hoài nghi không biết Đo Sư có phi là mt Bc Giác Ng hay không, c liên tc khơi dy tình trng lưỡng lvà do d, thiếu nim tin và hong s, to ra mt chướng ngi trong vic đi đến Thánh cnh ca mình (cnh gii ca Bc Thánh). Như vy, hoài nghi phi được xem như mt con đường hoang vng.

Mt người khe mnh, sau khi đã cm nhng vt có giá tr ln trong tay, có th du hành qua sa mc, võ trang đy đ cùng vi đoàn tùy tùng ca mình. Bn đo tc thy người y t xa cũng s b chy. Sau khi vượt qua sa mc và đến mt nơi an toàn, y s vô cùng sung sướng và h hi. Tương t, v Tỳ kheo nghĩ, ‘ Hoài nghi chính là nguyên nhân chính ca tai ha,’ vì thế, v y tu tp sáu pháp và đon tr hoài nghi trin cái.  Khi v y đã đon tr được hoài nghi, thì, như người đàn ông khe mnh võ trang đy đ cùng vi nhng tùy tùng ca mình, không s hãi, và xem nhng tên đo tc kia không hơn c rác, an toàn đi trong sa mc và đến mt nơi an toàn, v Tỳ kheo cũng vy, vượt qua sa mc tà hnh đến nơi an toàn ti thượng, tc s bt t hay Niết Bàn. Do đó, Đc Thế Tôn mi nói rng s đon tr hoài nghi cũng ging như mt nơi an toàn vy.

Đon t s đon tr tham cho đến cm nghim lc th bi mt người có s yên tnh nơi thân được nói là thuc v s tu tp chun b đnh, ch không phi tu tp an ch đnh. Nhưng trong trường hp khi mà tâm ca mt người có lc tr thành đnh, thì c chun b đnh và an ch đnh được nói ti, vì lc là nhân gn cho đnh cũng như s tu tp cn hành (đnh), và bi vì an ch ca sơ thin v.v... được thành tu nh (phương tin) tương quan nhân và qu. Nói khác hơn, ging như lc ca giai đon chun b, lc ca an ch cũng là nhân cho an ch đnh vy.  

Mc dù năm trin cái có th được đè nén bng Jhāna (bc thin) và đon tr tm thi bng tu Minh Sát (Vipassanā), song nếu chúhg chưa được bng gc bng đo tu, chc chn chúng s khi lên tr li trong tương lai. Nói khác hơn khi quý v mt Jhāna (thin) và tu Minh sát, các loi tai ha khác nhau có th xy đến cho quý v.

Đây là s chú thích t chú gii

Đng dng li khi chưa đến đích

Mc dù năm trin cái có th được đè nén bng Jhāna (bc thin) và đon tr tm thi bng tu Minh Sát (Vipassanā), song nếu chúhg chưa được bng gc bng đo tu, chc chn chúng s khi lên tr li trong tương lai. Nói khác hơn khi quý v mt Jhāna (thin) và tu Minh sát, các loi tai ha khác nhau có th xy đến cho quý v. Đ chng minh tm quan trng ca vic n lc liên tc cho đến khi đt đến thánh đo thánh qu, tôi s liên h đây mt câu chuyn được ghi li trong Sammoha-vidodanī, chú gii Vibhaga (B Phân Tích, mt trong by b sách ca Tng Diu Pháp) :

Mt v trưởng lão n là bc đã đon tn các lu hoc (ám ch mt bc Alahán) nghĩ đến vic đi đnh l ti ngôi Đi Đin ( th Xá-li Đc Pht) và cây Đi th B đ ( ti Anrādhapurā). Tháp tùng ngài là mt v Sa di có các thin chng phc v như mt th gi, vì ngài t mt vùng quê đến ngôi Đi T này. Khi Tăng chúng đi đnh l ngôi Đi Đin chiu hôm y, ngài không đi theo h đnh l). Vì sao ? Vì nhng v đã đon tn lu hoc tin Tam Bo là rt thiêng liêng. Do đó, khi Tăng chúng đnh l xong và tr v, vào cái gi mà mi người đang ăn ba ti, ngài ra đi mt mình không thông báo cho v Sa-di, vi ý đnh đnh l ngôi Đi đin.

V Sa-di nghĩ, ‘ Ti sao Trưởng lão li ra đi ngoài mt mình vào cái gi bt thường như thế này ? Ta s khám phá xem’. Và v y đi ra ngoài, ln theo nhng bước chân ca thy tế đ [1]. Không hay biết s hin din ca Sa-di do không tác ý [2], v Trưởng lão đi lên và vào trong khuôn viên ca ngôi Đi Đin bng cng nam. V Sa-di, theo du chân ngài, cũng đi lên. Khi v Trưởng lão nhìn đăm đăm vào ngôi Đi Đin, ngài cm thy say mê vi hình nh Đng Giác Ng k như đi tượng và, tp trung toàn tâm toàn ý ca mình, ngài đnh l ngôi Đi Đin vi nim h lc vô biên. Nhìn thy ngài đnh l, v Sa-di nghĩ, ‘ Thy tế đ ca ta đnh l vi lòng tràn đy nim hoan h. Nếu như ngài có nhng bông hoa và dâng lên cúng dường thì sao nh ?’
Chú thích : [1] Thy tế đ là thy cho xut gia và dy d đ t
[2] đây cn hiu, mc dù là mt bc Alahán, ngài có đ kh năng đ biết chuyn này, nhưng do không s dng trí (đ tác ý) nên ngài không biết mà thôi.

Sau khi đnh l xong, v Trưởng lão đng dy và vi hai tay chp li vi nhau trên đu nhìn vào ngôi Đi Đin. V Sa di đng hng cho ngài biết có s hin din ca mình. V Trưởng lão quay li nhìn chú và hi :

‘Ngươi đến khi nào ?’

‘ Khi ngài đang đnh l ngôi Đi Đin, bch Trưởng lão. Ngài đã đnh l ngôi đin th vi nim hoan h vô cùng tn. Nếu như ngài có nhng bông hoa đ dâng lên cúng dường thì sao ?’

‘ Đúng vy, này Sa-di. Không nơi nào khác tp trung được nhiu xá li như ngôi đin th này. mt nơi tưởng nim vĩ đi không đâu sánh bng như thế, nếu có hương hoa ai li không mun dâng lên cúng dường ch ?’

V Sa-di nói, ‘ Hãy ch, bch Trưởng lão, con s tr li.’

Nói như thế xong v y nhp thin (Jhāna) và, bng năng lc thn thông ca mình, bay đến Hy-mã-lp-sơn (Himalayas),v y b đy túi lc nước [1] ca mình nhng bông hoa thơm, sc màu tươi đp nht. Và khi v Trưởng lão đến được cng tây ca ngôi đin th t cng nam, v Sa-di đã đt túi lc nước đng đy hoa y vào tay ngài và nói :

‘ Bch Trưởng lão, hãy dâng lên cúng dường.’

Trưởng lão nói :
 
‘ Nhng bông hoa này dường như quá ít, có phi vy không ?’

‘ C đi, bch Trưởng lão, và khi cúng dường hoa hãy quán tưởng đến nhng ân đc ca Bc Giác Ng.’

Chú thích : [1] Túi lc nước : Mt túi vi như cái túi lc café, được dùng đ lc nước ung ( mt trong tám vt dng ca v Tỳ kheo)

V Trưởng lão đi lên bng cu thang ca cng tây và bt đu cúng dường hoa trên sân thượng ca hàng rào chn song bên trong. Sân thượng đy hoa. Nhng bông hoa rơi xung tng hai ngp lên đến gi. T đó đi xung,ngài cúng dường hoa ti chân hành lang. Nơi đó cũng đy hoa. Thy hoa đã đy, ngài đi xung và rc hoa trên nn đt phía dưới. Trưởng lão đã rc đy c khuôn viên đin th. Khi tt c đã đy, ngài nói :

‘ Này Sa-di, hoa vn chưa hết.’

‘Hãy ln ngược túi lc li, bch Trưởng lão.’

Ln ngược xong, ngài lc lc cái túi và nhng bông hoa đã hết. Trưởng lão đưa cái túi lc nước li cho v Sa di và đi nhiu quanh đin th cùng vi Bc Tường Voi ba vòng v phía bên phi và đnh l ti bn ca đin. Trên đường tr v phòng, ngài nghĩ, ‘Sa-di này tht là có năng khiếu v thn thông ! Liu y có th gi gìn được nhng năng lc thn thông y không ?’(Và bng kh năng ca mình) ngài thy rng y không th.

Trưởng lão bèn nói vi Sa-di :

‘ Này Sa-di, hin ti ông rt mnh vi nhng năng lc thn thông. Nhưng sau này, khi mà nhng năng lc đó mt đi, ông s húp cháo go bóp bng tay ca mt cô gái th dt mù đy !’

Chính do s nông ni ca tui tr mà v Sa-di đã không b đng tâm bi nhng li nói ca thy tế đ mà còn yêu cu ngài :

‘ Hãy gii thích cho con mt đ tài thin đi, bch Trưởng lão.’ Và y b đi như th không nghe thy gì, nghĩ rng, ‘ Thy tế đ ca ta đang nói cái gì thế nh ?’

Sau khi đnh l ti ngôi Đi Đin và Đi th B đ xong, v Trưởng lão bo Sa-di cm ly bát và y (tăng- già- lê) ca mình, và đúng thi h đi đến Đi T Kutelitissa.

V Sa-di không đi kht thc theo thy ; mà sau khi hi, ‘ Bch Trưởng lão, ngài s đi làng nào ?’

Khi y biết thy tế đ ca mình đã đi đến ti cng làng, y cm ly y bát ca mình cũng như y bát ca v Trưởng lão và, phi hành bng đường hư không, y đưa y và bát cho v Trưởng lão ri đi vào làng kht thc.

Mi ln như vy, v Trưởng lão đu cnh báo, ‘ Này Sa-di, ch có hành đng như vy. Thn thông ca hàng phàm nhân (người chưa đc Thánh) không bn đâu ; ch cn ly mt cnh sc không thích hp làm đi tượng chúng lp tc đt ngay đy. Và sau khi mt mt thin chng, người ta không th tiếp tc an trú vng chc trong đi phm hnh được đâu.’ Nhưng v Sa-di nghĩ, ‘ Thy tế đ ta đang nói cái gì vy ?’ và y không mun nghe. Y vn tiếp tc làm như trước.

Đnh l nhng ngôi tháp th xá li ti Đi T Kutelitissa xong, đúng thi, Trưởng lão đi đến Đi T Kupavena. Trong khi v Trưởng lão trú đó, v Sa-di tiếp tc s dng thn thông như trước. Thế ri mt hôm cô con gái xinh đp ca người th dt , đang đ tui thanh xuân đi ra khi làng Kupavena, và cô đi xung h sen đ hái nhng bông hoa sen đó, va làm va hát (như cô vn tng làm). Nhưng đúng vào lúc đó v Sa di bay ngang (qua hư không) trên h sen, và, ging như người đánh cá mù trong cái sàng !? Y b tóm cht trong tiếng hát ca cô. Lp tc nhng năng lc thn thông ca y biến mt và y (rơi) không khác mt con qu b ct cánh. Tuy nhiên nh thin chng, y không đến ni rơi thng xung nước, mà ging như mt ht bông chìm t t, y dt vào ngh trên b h sen. 

Nhanh chân, y chy đưa y bát cho thy tế đ và quay tr li. V Trưởng lão (nghĩ) ‘ Tht đúng như ta đã đoán trước ; nếu y b chướng ngi, y s không quay tr li.’ V Trưởng lão không nói gì và lng l đi vào làng kht thc.


V Sa-di quay tr li và đng trên b h sen ch cô gái li lên khi nước. Cô gái đã thy v Sa-di bay qua hư không và [ bây gi ] y đã quay tr li và đang ch, cô biết chc chn là vì cô mà y đã tr nên bt mãn ‘Xin lui li bch Sa-di,’ cô nói. Y làm theo như vy. Cô bước lên khi nước và, sau khi đã mc qun áo, đi đến ch y. ‘ Có chuyn gì thế, bch ngài ?’ cô hi.

V Sa-di k li s tình ca mình. Vi nhiu lý l cô gái ch ra cho thy nhng nguy him ca đi sng gia đình và nhng li ích ca đi phm hnh [nhưng] dù hết li d dành cô vn không th nào xua tan được s bt mãn ca y. [ Suy nghĩ] ‘ Chính vì ta mà y đã mt nhng năng lc thn thông ; b y lúc này tht là không phi,’ cô bèn nói y đng ch đó. Cô chy v nhà và nói tt c nhng gì đã xy ra. H cùng đi đến và, mc dù đã cnh báo y bng nhiu cách, song vì y không chú ý đến nhng li h nói : ‘ Ch có xem chúng tôi là mt gia đình sang c, chúng tôi ch là nhng người th dt. Liu anh có th làm công vic ca người th dt được không ?’

V Sa-di nói, ‘ Này cư sĩ, nếu tôi tr thành mt người ti gia tôi s làm công vic ca người th dt hay công vic ca người đan r rá cũng được. Có gì nào ? Ch có min cưỡng tôi mt miếng vi [ đ tôi mc như người ti gia cư sĩ ].’

Sau khi đưa cho y mt miếng vi đ qun quanh hông, người th dt đưa y v nhà và g con gái cho y. Hc xong ngh dt, y làm vic trong gian phòng ln cùng vi nhng người th dt khác. V ca nhng người khác lo chun b ba ăn t sáng sơm và mang nó đến gian phòng ln. Còn v ca y không đến lin. Trong khi nhng người khác ngưng công vic đ ăn cơm, y phi ngi ru rĩ vi con thoi.

Cui cùng thì v y cũng đến. Y trách v, ‘ Cô làm gì mà lâu thế mi đến !’

Và khi nhng người ph n biết rng tâm [ ca mt người đàn ông ] rt quan tâm đến h, h thường đi x vi y như k nô l, cho dù y có là mt v Chuyn Luân Vương chăng na.

Vì thế mà cô v tr li như vy, ‘ nhà người khác, rau ci, mm mui và các th đ ăn có sn, v li còn có người giúp vic cũng như tôi t t ngoài đến na. Còn tôi thì ch có mt mình. Anh không biết trong nhà anh cái gì có, cái gì không. Nếu anh mun ăn  thì ăn, còn không mun ăn thì đng ăn, vy thôi.’

Y nói, ‘ Chng nhng trưa try trưa trt cô mi mang cơm đến mà li còn nói vi tôi bng nhng li xúc phm như thế h ! ‘

Và thế là ni cơn thnh n, không tìm ra cái gì đ đánh cô v, y kéo cái cán con thoi ra khi con thoi và ném nó [ vào cô ta ]. Thy nó bay ti, cô xoay người tránh. Vì đu cán con thoi rt bén nên nó đâm vào đuôi mt ca cô ta và cm cht đó. Lp tc cô đưa hai tay lên bưng mt. Máu tuôn ra t vết thương.

Ngay giây phút y, y nh đến li nói ca thy tế đ. Thế là y bt đu khóc rng lên trong tiếng nc n : ‘ Chính vì điu này mà thy tế đ ta nói, "Trong tương lai sp ti ông s húp cháo go bóp bng tay ca cô gái th dt mù đây sao." Bây gi nhng gì ngài tiên đoán đã tr thành s thc. Ôi, ngài thy xa biết chng nào ! Than ôi !

Nghe thế nhng người kia nói :

‘ Thôi đ ri này ông bn, đng có khóc na. Có khóc con mt hư cũng không lành li được.’

Y nói, ‘ Tôi không khóc vì lý do đó. Mà tôi khóc vì điu này [điu ca thy tế đ tôi nói]’. Và y k li cho mi người biết nhng gì đã xy ra.’

T câu chuyn trên chúng ta biết rng ngưng hành thin ch và thn Minh Sát (Vipassanā) s dn đến tai ha như vy. Và quý v không nên theo tm gương đáng thương này mà hãy c gng thc hành liên tc cho đến khi quý v đt đến thánh đo và thánh qu mi thôi.

Sng theo Pháp

Có l s thích hp đ tôi chm dt bài ging đây vi bài Kinh được gi là ‘ Sng theo Pháp (Dhamma)’ trong Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh ) :

Lúc by gi mt v Tỳ kheo đến thăm viếng Đc Thế Tôn, sau khi đến v y đnh l Đc Thế Tôn, đn l xong v y ngi xung mt bên. Ngi xong, v y nói vi Ngài như sau :

‘ Bch Thế Tôn, người ta nói : Sng theo Pháp, sng theo Pháp ! Bch Thế Tôn, mt v Tỳ kheo sng theo Pháp là thế nào ?’

 ‘ Này Tỳ kheo, hãy suy xét, mt v Tỳ kheo tinh thông Pháp (Dhamma) : Khế kinh, ng tng, Ký thuyết, Phúng tng, Không hi t nói, Như th thuyết, Bn sanh, V tng hu pháp, Trí gii hay Phương qung- v y dành trn c ngày đ hc Pháp (Dhamma) ; b phế cuc sng đc cư hành thin) và không n lc đ an tnh t thân. Này Tỳ kheo, v Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng tinh thông kinh đin, nhưng không sng theo Pháp.

‘ Li na. này Tỳ kheo, hãy suy xét v Tỳ kheo dy Pháp cho người khác mt cách chi tiết như vy y được nghe, như v y đã được hc – v y dành trn c ngày đ thuyết phc nhng người khác v Pháp ; b phế sng đc cư hành thin) và không n lc đ an tnh t thân. Này Tỳ kheo, v Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng thuyết phc, nhưng không sng theo Pháp. 

‘ Li na. này Tỳ kheo, hãy suy xét v Tỳ kheo, hãy suy xét v Tỳ kheo lp li đy đ Pháp, như v y đã được nghe, như v y đã được hc nó – v y dành trn c ngày đ lp đi lp li Pháp ; b phế sng đc cư hành thin) và không n lc đ an tnh t thân. Này Tỳ kheo, v Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng lp li Pháp, nhưng không sng theo Pháp.

‘ Nhưng, này Tỳ kheo, ly trường hp v Tỳ kheo tinh thông Pháp (Dhamma) : Khế kinh, ng tng, Ký thuyết, Phúng tng, Không hi t nói, Như th thuyết, Bn sanh, V tng hu pháp, Trí gii hay Phương qung- v y dành trn c ngày đ hc thuc lòng Dhamma ; không b phế sng đc cư hành thin) và n lc đ an tnh t thân. Này Tỳ kheo, v Tỳ kheo đó được nói là người sng theo Pháp.

‘ Này Tỳ kheo, thc s như vy Ta đã nói v v nhanh chóng tinh thông, v nhanh chóng thuyết phc, v nhanh chóng lp li, v nhanh chóng tư duy, và v sng theo Pháp.
 
‘ Này, Tỳ kheo, nhng gì mt v đo sư cn phi làm cho các đ t vì s tt đp ca h, nhng điu y Như Lai đã làm xut phát t lòng bi mn, t lòng thương xót đi vi h. Này Tỳ kheo (hãy nhìn ) đây là nhng gc cây, đây là nhng ngôi nhà trng. Này, Tỳ kheo hãy hành thin, ch có phóng dt ; ch đ t trách mình v sau. Đây là li giáo gii ca Ta cho ông.’

Trên đây là nhng gì Đc Pht nói trong bài kinh gi là Sng theo Pháp (Dhamma)’

Cu chúc quý v hành thin tht chuyên cn và sng đúng theo Pháp.