với
một vị Tỳ kheo, này Ananda, là bạn với thiện,
giao du với thiện, kết hợp
với thiện, được chờ
đợi là sẽ tu tập và thực
hành nghiêm túc Bát Thánh Đạo...
Nhờ lấy Ta như một
bậc thiện tri thức (bạn lành), các chúng sanh bị sanh được
giải thoát khỏi sanh, các chúng sanh bị già được thoát khỏi
già, các chúng sanh bị chết được thoát khỏi
chết, và các chúng sanh bị sầu, bi, khổ,
ưu, não được giải thoát khỏi
sầu, bi, khổ, ưu, não.’
‘ Này Ananda, cần phải hiểu
vì sao toàn bộ đời phạm hạnh
là nhờ thiện bạn hữu,
thiện giao du, thiện kết hợp
theo cách này vậy.’
Hơn
nữa, trong kinh
Dutiyasekkha Sutta của
Itivuttaka, Đức Phật có nói như sau:
‘ Này các Tỳ kheo, đối với vị
Tỳ kheo là bậc hữu học, chưa
đạt đến sự hoàn thiện
nhưng đang sống cần cầu
sự an ổn tối thượng
khỏi các trói buộc, về các yếu
tố bên ngoài, Ta không thấy một yếu
tố nào khác hữu ích như thiện bạn
hữu. Này các Tỳ kheo, một vị Tỳ kheo có thiện
bạn hữu (có bạn lành), sẽ
đoạn trừ những pháp bất
thiện và tu tập những pháp thiện.’
Tỳ kheo có bạn lành,
Tôn quý và kính trọng,
Làm theo lời bạn
khuyên,
Tỉnh
giác và chánh niệm,
Sẽ
tuần tự đạt đến,
Chỗ
dứt mọi kiết sử.
Nói chuyện thích hợp
Trong Mahāsuññata Sutta của Trung Bộ Kinh (Majjhimā Nikāya), Đức Phật nói:
‘ Khi một vị
Tỳ kheo trú như vậy, nếu tâm vị
ấy hướng đến nói chuyện,
vị ấy quyết định
như sau:
“ Sự
nói chuyện như vậy là thấp
hèn, thông tục, thô tháo,
đê tiện, không có lợi ích và nhất là không dẫn đến sự
yếm ly, ly dục, đoạn diệt,
an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết Bàn, đó là, nói về
vua chúa, nói về phường trộm đạo,
nói về quan lại, quân binh, những hiểm nguy, chiến
trận, đồ ăn uống, y phục,
giường nằm, vòng hoa, dầu thơm, quyến
thuộc, xe cộ, làng mạc, tỉnh lỵ,
đô thị, quốc gia, phụ nữ, anh hùng, đường
sá, giếng nước, người chết,
chuyện tầm phào, nguồn gốc của
thế gian, nguồn gốc của
biển cả, những chuyện
có như vậy hoặc không có như
vậy, ta sẽ không nói những chuyện như
thế.” Theo cách này, vị ấy có sự
tỉnh thức đầy đủ
về việc nói.
‘ Nhưng vị
ấy quyết định:
“Nói chuyện như
thế liên quan đến sự thu thúc, có lợi
cho tâm giải thoát, nhất là dẫn đến
sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn, đó là, nói về
thiểu dục ( ít muốn), nói về tri túc (biết đủ), nói về
độc cư, xa lánh quần tụ, khơi
dậy tinh tấn, giới hạnh,
định tâm, trí tuệ, giải thoát, giải
thoát tri kiến. Nói chuyện như thế
ta sẽ nói.”
‘Theo cách này, vị ấy có sự
tỉnh thức đầy đủ
về việc nói.’
Những
cách khác
Trên đây là sáu pháp có lợi ích trong việc khắc phục
tham dục. Ngoài sáu pháp ấy, chi thiền nhất tâm, niệm
căn và niệm giác chi cũng
lợi ích trong việc vượt qua tham dục
nữa.
Để
cho quý vị một ví dụ về
cách phải tu tập chánh niệm như thế
nào, tôi sẽ trích dẫn một bài kinh khác từ
Mahāvagga của Tương Ưng Kinh (Saṃyutta
Nikāya):
Một
lần nọ, Đức Thế
Tôn trú giữa những người dân xứ
Sumbha tại Sedaka, một thị tứ
của người dân Sumbha. Ở đó, Đức Thế
Tôn nói với các Tỳ kheo:
“Này các Tỳ kheo, ví như có một đám đông người
tụ tập với nhau, la lên “ Ô, hoa hậu! Hoa hậu!
Và nếu cô gái hoa hậu ấy còn có năng khiếu
diễn xuất như ca múa nữa,
thời đám đông sẽ la lớn hơn:
“Ô hoa hậu đang múa, hoa
hậu đang hát!”
Rồi
có một người, muốn sống,
không muốn chết, muốn lạc
và chán ghét khổ đau. Mọi người nói với
anh ta như sau: “Này anh
kia, hãy nhìn đây! Đây là cái bát dầu
đầy lên tới miệng. Anh phải
mang cái bát dầu đầy này đi giữa đám đông và cô gái hoa hậu. Một người
với thanh kiếm giơ cao sẽ
theo sau lưng anh, và tại chỗ nào anh làm đổ,
dù chỉ một giọt dầu,
tại chỗ đó người ấy
sẽ chặt đứt đầu
anh!”
‘ Bây giờ các ông nghĩ thế
nào, này các Tỳ kheo? Liệu
người đàn ông đó, có
không chú ý đến bát dầu, có dám gạt sự chánh niệm
ra ngoài không?’
‘ Chắc chắn
là không, bạch Đức Thế Tôn.’
‘ Phải, này các Tỳ kheo, ví dụ này Ta đưa
ra đây để làm rõ ý nghĩa.
Và ý nghĩa của nó là như thế này: “Bát dầu
đầy tới miệng, này các Tỷ
kheo, là một từ để chỉ
niệm thân”
‘Do đó, này các Tỳ kheo, các ông
phải học tập như
sau: “ Chúng ta cần phải tu tập niệm
thân, niệm thân phải được làm cho sung mãn, làm cho thành cỗ xe, làm cho thành mặt bằng. Niệm
thân phải được làm cho có hiệu quả, làm cho khéo quen thuộc, và làm cho hoàn thành trong chúng ta.”
‘ Này các Tỳ kheo, các ông phải học tập
như vậy.’
Để
chỉ cho quý vị thấy thêm tại
sao chúng ta phải có sự chú niệm trong từng
sát na hay trong từng khoảnh khắc của
cuộc sống, tôi sẽ trích dẫn kinh Paduṭṭhacitta của bộ Itivuttaka, ở
đây Đức Phật nói như sau:
‘ Ở
đây, này các Tỳ kheo, người
kia có nội tâm đồi bại. Với
Tâm của Ta, Ta xem xét
tâm của người ấy, Ta biết
rằng nếu người ấy
chết lúc đó, người ấy sẽ
rơi vào địa ngục. Lý do vì sao? Đó là vì nội tâm của vị
ấy đồi bại. Chính vì nội
tâm đồi bại mà một số
chúng sanh ở đây (thế gian này), khi thân hoại mạng chung, sẽ
tái sanh trong cõi khổ,
ác thú, địa ngục.’
Tôi sẽ nêu ra đây cho quý vị một
vài thí dụ để chứng minh bài Kinh trên. Giả sử
một người nam thấy một người
nữ đẹp và nghĩ : “Ồ,cô nàng này đẹp tuyệt! Đôi bàn tay của
của cô ta thon thả làm sao! v.v.”.. Và nếu anh ta chết ngay lúc đó, anh ta sẽ bị tái sanh vào một
trong bốn ác đạo (địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh và Atula). Tương tự, nếu
một người nữ chết
vào lúc khởi lên một ý nghĩ nhục dục do thấy
một người nam, cô ta cũng sẽ tái sanh vào một trong bốn ác đạo như
vậy. Bất cứ lúc nào, nếu
một người chết vào lúc khởi
lên một ý nghĩ bất thiện, như
ý nghĩ nhục dục hoặc ý nghĩ sân hận,
chắc chắn người ấy
sẽ tái sanh vào một trong bốn ác đạo. Quý vị
thấy, ngay cả một ý nghĩ bất
thiện cũng có sức mạnh như
vậy, cũng khủng khiếp như
vậy. Và chúng ta trong một ngày có nhiều ý nghĩ thiện hơn hay nhiều
ý nghĩ bất thiện hơn? Thử
nghĩ về điều đó xem. Tôi nghĩ chắc quý vị biết
rằng Tôn giả Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là người
có tám thiền chứng và năm thần thông hiệp thế (bát thiền
ngũ thông), nhưng cuối cùng ông ta vẫn rơi vào địa
ngục A tỳ (Avici) do ác
nghiệp đã làm vậy. Còn hiện nay quý vị có bát thiền ngũ thông không?
Như
vậy, vì lợi ích của
bản thân, mặc dù quý vị không thể có chánh niệm liên tục, song quý vị vẫn nên hết
sức mình để giữ chánh niệm
trong mọi lúc, dù khi đi,
đứng, ngồi hay nằm trong suốt
cả ngày. Quý vị phải luôn chánh niệm
về hơi thở của
mình, về tứ đại, về
ba mươi hai thể trược, về
đề mục kasina, về danh và sắc, hay về mười hai chi phần
duyên sanh (thập nhị nhân duyên), tùy thuộc vào đề mục
quý vị đang thực hành. Nếu quý vị thực
hành liên tục theo cách
này, thời do sức mạnh của
sự lập đi lập lại
chắc chắn định và chánh niệm
của quý vị sẽ càng lúc càng mạnh
hơn. Việc
làm này cũng giống như nấu nước
sôi. Nếu quý vị nấu một
bình nước trong vòng vài
phút rồi ngưng để cho nó nguội
trở lại. Lần thứ
hai quý vị lại nấu vài phút rồi
lại để cho nó nguội trở lại.
Theo cách này, dù cho quý vị
có nấu cả trăm hay ngàn lần, nước cũng không thể
sôi được. Tuy nhiên, nếu quý vị nấu
nước liên tục không ngừng, chẳng bao lâu nó sẽ
sôi. Tương tự, nếu quý vị
hành thiền trong vài tuần hay vài tháng rồi ngưng. Lần
thứ hai quý vị cũng thực hành trong vài tuần hay vài tháng rồi lại ngưng,
không tiếp tục công việc hành thiền của quý vị
nữa. Hay nếu quý vị hành thiền
trong lúc ngồi nhưng lại làm công việc
gì khác giữa các thời ngồi, thì sẽ
thất bại. Dù quý vị có thực hành như
thế này suốt cả cuộc
đời quý vị cũng không thể đạt đến
một đạo quả nào được.
Nhưng nếu quý vị thực
hành liên tục với lòng tôn kính ( pháp hành)
trong nhiều tháng hay nhiều năm, thì rất có thể quý vị
sẽ thành tựu cứu cánh. Nếu
quý vị thực lòng ước muốn
cho sự an vui hạnh phúc của mình, tôi nghĩ quý vị biết những
gì phải làm.
Thường
thì sân có hai loại, đó
là, sân hung hăng và sân trầm
uất. Để chế ngự
hay vượt qua loại sân thứ nhất, tu tập
tâm từ là pháp môn tốt nhất, bởi
vì sân và từ là hai thái
cực không thể cùng hiện hữu. Vì lẽ
trong một sát -na tâm, chỉ có một tâm duy nhất
có thể khởi lên, nên khi từ tâm có mặt, sân tâm không thể khởi lên, và ngược
lại.
Sân hận
Trong kinh Tương Ưng (Saṃyutta
Nikāya), Đức Phật đưa ra một
hình ảnh để minh họa sân hận
như sau:
‘ Nếu
có một bình nước đun nóng trên lửa, nước sẽ
sủi bọt và sôi lên, một người với
thị lực bình thường, nhìn vào bình nước ấy, không thể
nhận ra và thấy được hình ảnh
của khuôn mặt mình một cách đúng đắn. Cũng tương tự như
vậy, khi tâm một người bị
sân hận ám ảnh, bị sân áp đảo,họ không thể thấy được
lối thoát khỏi sân hận đã khởi
lên một cách đúng đắn; từ đó họ
cũng không thể hiểu và thấy một
cách đúng đắn lợi ích của mình, không thể
hiểu và thấy một cách đúng đắn
lợi ích của người, không thể
hiểu và thấy một cách đúng đắn
lợi ích của cả hai; những
bài pháp đã học thuộc lòng trước đây không đi vào tâm của họ ( không nhớ
được), nói gì đến những bài pháp không thuộc.’
Trong Eka-Nipāta của Tăng Chi Kinh ( Aṇguttara Nikāya ), Đức Phật nói như
sau:
‘Này các Tỳ kheo, Ta không thấy một pháp nào khác có sức mạnh
như vậy khiến cho sân chưa
sanh, sanh khởi, hay, sân
đã sanh khiến cho mãnh liệt, tăng trưởng, như nét đáng chán (đối
ngại tướng).
Nơi
người nào phi lý tác ý đến nét đáng chán, sân hận chưa sanh sẽ
sanh khởi, hay, sân hận đã sanh trở nên mãnh liệt, tăng trưởng.’
‘ Này các Tỳ kheo, Ta không thấy một pháp nào có sức
mạnh như vậy, ngăn được
sự sanh khởi của sân, nếu
chưa sanh, hay, nếu sân đã sanh, khiến cho được đoạn
trừ, như từ tâm giải
thoát.
Nơi
người nào như lý tác ý đến từ tâm giải
thoát thì sân, nếu chưa sanh, không sanh, hay, sân,
nếu đã sanh, khiến cho được đoạn
trừ.’
Cũng trong Tăng Chi Kinh ( Aṇguttara Nikāya ), bài pháp vượt qua sân hận được Đức
Phật dạy như sau:
‘ Này các Tỳ kheo, có năm cách vượt qua sân hận. Bất luận
khi nào sân hận khởi lên nơi một
vị Tỳ kheo, nó cần phải được
vượt qua một cách hoàn toàn. Thế nào là năm?
‘ Nếu
lúc nào sân hận khởi sanh nơi một người,
trong người ấy, từ phải
được tu tập, trong người ấy, bi phải
được tu tập, trong người ấy xả
phải được tu tập, trong người
ấy trạng thái không nhớ (vô niệm) không tác ý đến
đối tượng tạo ra sân hận
cần phải được tu tập,
trong người ấy ý thức về
sự kiện nghiệp (kamma) của
một người là tài sản riêng của người ấy
phải được tu tập... Như
vậy sân sẽ được vượt
qua nơi người ấy. Quả
thực, đây là năm cách vượt qua sân hận. Ở đâu sân hận
khởi lên nơi một vị
Tỳ kheo, ở đó nó sẽ được vượt
qua một cách hoàn toàn.’
Thường
thì sân có hai loại, đó
là, sân hung hăng và sân trầm
uất. Để chế ngự
hay vượt qua loại sân thứ nhất, tu tập
tâm từ là pháp môn tốt nhất, bởi
vì sân và từ là hai thái
cực không thể cùng hiện hữu. Vì lẽ
trong một sát -na tâm, chỉ có một tâm duy nhất
có thể khởi lên, nên khi từ tâm có mặt, sân tâm không thể khởi lên, và ngược
lại. Như
vậy khi quý vị có tâm từ, sân không thể nào sanh khởi. Nếu quý vị
thường xuyên trau dồi tâm từ, dần
dần nó sẽ trở thành một
phần nhân cách của quý vị, và quý vị
sẽ không thể dễ dàng nổi
sân như trước nữa.
Ở
đây tôi sẽ đưa ra một thí dụ
để giải thích pháp môn ‘ trong người ấy trạng
thái nhớ nghĩ (vô niệm) và không tác ý đến đối tượng
tạo ra sân hận phải được
tu tập’. Giả sử, trong khi đi trên đường, quý vị
nhìn thấy một đống phân hôi thối,
quý vị có cần hốt nó lên, bỏ
vào túi, rồi nổi giận với
mùi hôi thối của nó và trách cứ tại sao nó làm bẩn
áo quần của quý vị hay không? Tất
nhiên điều đó không cần. Quý vị chỉ việc
đi ngang qua và hoàn toàn không cần
phải để ý gì đến nó. Tương
tự, một ác nhân ngu si cũng giống như một
đống phân hôi thối. Quý vị không cần bận tâm đến
anh ta để chuốc lấy phiền
phức vốn không đem lại tốt lành gì cho cả
hai đàng. Quý vị nên tự hỏi mình như
vầy: nổi giận có giúp ích gì cho việc hành thiền
không? Nếu có thì quý vị nên nổi giận.
Song đó là chuyện không
thể. Vì thế cớ sao lại
phải nổi giận?
Đối
với loại sân trầm uất vốn
bao gồm tất cả các loại
ưu sầu, buồn bã, than khóc, tuyệt vọng
(sầu, bi, khổ, ưu, não) v.v... quý vị cũng nên tác ý theo cách như trên. Tức là, nếu sân này có ích cho việc hành thiền,
thời quý vị nên tu tập nó. Thực sự, nó không lợi
ích cho thiền mà chỉ có hại mà thôi. Như
vậy, sao chúng ta lại ngu ngốc đến độ
để rơi vào tình trạng sân đã không hoàn toàn
không có lợi mà còn có hại này chứ? Đức Phật,
Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả
Mục Kiền Liên, tất cả các vị
Thánh A-la-hán và Thánh Bất
lai không bao giờ ưu sầu, buồn
bã, than khóc và tuyệt vọng. Tại sao chúng ta không học những
người thánh thiện, trí tuệ ấy? Tóm lại,
ưu sầu, buồn bã, than khóc và tuyệt vọng
thuộc về những kẻ
yếu đuối, và nó không đáng cho chúng
ta tu tập vậy.
Lại
nữa, chú giải Tứ Niệm
Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta) nói rằng có sáu pháp lợi ích cho việc chế ngự
sân hận:
Học
cách thiền tâm từ;
Dành hết nổ
lực cho việc hành thiền tâm từ;
Suy xét rằng ta là chủ
nhân và kẻ thừa tự của
nghiệp (Kamma)
Thường
xuyên tác ý đến nó;
Thiện
bạn hữu;
Nói chuyện thích hợp.
Trong chương chín của
bộ Thanh tịnh Đạo (Visuddhimagga) có một bản
luận giải chi tiết về cách làm thế
nào để chế ngự sân hận.
Vì thấy nó rất hữu ích, nên tôi sẽ
mô phỏng lại đây cho quý vị biết:
Nếu
sự tức giận khởi
lên nơi hành giả khi hướng tâm đến
một người thù vì nhớ lại lầm
lỗi người ấy đã làm (với
mình), hành giả nên gạt bỏ cơn
giận bằng cách liên tục nhập vào thiền
(Jhāna) tâm từ hướng tâm đến bất kỳ hạng
người nào đã đề cập trước
đó, (đó là một người thân, một người rất
thân và một người không thân không thù) và rồi, sau mỗi lần xuất
thiền, hướng tâm từ đến người
(thù) đó.
Nhưng
nếu sự tức giận
vẫn không dứt sạch bất
chấp những nổ lực
của hành giả, thì:
Hãy nhớ đến
cái cưa
Với
những hình ảnh tương tự
khác,
Và cứ nổ
lực liên tục như thế,
Để
bỏ xa sự tức giận
phía sau.
Hành giả nên tự
răn bảo mình theo cách
này: Này kẻ đang sân hận kia, chẳng phải Đức
Thế Tôn đã nói, ‘ Này các
Tỳ kheo, dù bọn lục lâm thảo khấu có man rợ
cưa đứt tay chân các người với cây cưa
hai tay nắm, người nào vì thế mà ôm lòng sân hận sẽ không phải
là người thực hành giáo pháp của ta’ đó sao? (M. I, 129) và,
‘ Lấy
sân đáp người sân
Tệ
hơn người sân trước;
Không sân đáp người sân
Thắng
trận chiến khó thắng.
Vì lợi ích cả
hai,
Lợi
mình và lợi người
Một
khi ta đã biết,
Kẻ
thù là sân hận,
Chánh niệm giữ
bình yên.’ (S.i, 162)
‘Ở
đây, này các Tỳ kheo, có bảy
pháp làm thỏa mãn và lợi ích cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận,
dù là nữ hay nam. Thế nào là bảy ? Này các Tỳ kheo, ở đây một kẻ
thù mong muốn cho người nó thù như vầy " Mong cho nó bị xấu
xí." Tại sao vậy ? Vì kẻ thù không cảm thấy thích thú với
dung sắc của người thù. Bây giờ
người bị phẫn nộ
chi phối này là miếng mồi cho sân hận,
bị sân hận thống trị
; dù cho tắm kỹ, có xức dầu
thơm, với tóc râu khéo cắt tỉa và mặc
quần áo trắng tươm tất,
nó vẫn cứ xấu, do là miếng
mồi cho sân hận vậy. Đây là pháp thứ
nhất làm lợi ích và thỏa mãn cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận
vậy, dù là nam hay nữ. Lại nữa,
một kẻ thù mong cho người nó thù như vầy, " Mong cho nó ngủ trong khổ
sở !" Tại sao vậy ? Này các Tỳ kheo, bây giờ người bị
sân hận chi phối này, là miếng mồi cho sân hận,
bị sân hận thống trị,
dù có nằm trên ghế dài, nệm trải
bằng len, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bằng da con sơn
dương gọi là kadali, tấm
thảm với lọng che phía trên, ghế dài có đồ
gối chân màu đỏ. Tuy vậy, nó vẫn
cứ ngủ một cách khổ
sở, do là vì miếng mồi cho sân hận
vậy. Này các Tỳ kheo, đây
là pháp thứ hai làm thỏa mãn và lợi ích cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận,
dù là nam hay nữ. Lại nữa, này các Tỳ kheo, một kẻ
thù mong muốn cho người nó thù như vầy : " Mong cho nó không có lợi ích !" Tại sao vậy ? Này
các Tỷ kheo, kẻ thù không hoan hỷ người thù của
nó được lợi ích. Bây giờ người bị
sân hận chi phối này, là miếng mồi cho sân hận,
bị sân hận thống trị,
thu hoạch điều bất lợi
lại nghĩ rằng : " Ta không được lợi ích." Những
pháp này được nắm giữ khiến
người khác trở thành kẻ thù địch, đưa
đến không hạnh phúc, đau khổ lâu dài, do là vì miếng mồi cho sân hận
vậy. Này các Tỳ kheo, đây
là pháp thứ ba làm thỏa mãn và lợi ích cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận,
dù là nam hay nữ. Lại nữa, này các Tỳ kheo, một kẻ
thù mong muốn cho người nó thù như vầy : " Mong rằng
nó không có tài sản
!" Tại sao vậy ? Này các Tỳ kheo, kẻ thù không hoan hỷ người nó thù được
tài sản ! Bây giờ, người bị
sân hận chi phối này, là miếng mồi cho sân hận,
bị sân hận thống trị,
những tài sản nào nó thu hoạch được do sự
phấn chấn tinh cần, cất chứa
do sức mạnh của cánh tay, chồng
chất do những giọt mồ
hôi, đúng pháp, thu hoạch
hợp pháp. Các tài sản ấy bị
vua cho chở về ngân khố của nhà vua, do vì miếng
mồi cho sân hận vậy. Này các Tỳ kheo, đây là pháp thứ tư làm thỏa
mãn và lợi ích cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận,
dù là nam hay nữ. Lại nữa, này các Tỳ kheo, một kẻ
thù mong muốn cho người nó thù như vầy : " Mong rằng
nó không có danh tiếng
!" Tại sao vậy ? Này các Tỳ kheo, kẻ thù không hoan hỷ người nó thù có danh tiếng. Bây giờ,
người bị sân hận chi phối
này, là miếng mồi cho sân hận, bị sân hận
thống trị, nếu có danh tiếng
gì nhờ không phóng dật thu được, danh tiếng
ấy xa lánh họ, vì miếng mồi
cho sân hận vậy. Này các Tỳ kheo, đây là
pháp thứ năm làm thỏa mãn và lợi ích cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận,
dù là nam hay nữ. Lại nữa, này các Tỳ kheo, một kẻ
thù mong muốn cho người nó thù như vầy : " Mong rằng
nó không có bạn bè
!" Tại sao vậy ? Này các Tỳ kheo, kẻ thù không hoan hỷ người nó thù có được
bạn bè. Bây giờ, người bị
sân hận chi phối này, là miếng mồi cho sân hận,
bị sân hận thống trị,
nếu có bạn bè thân hữu , bà con huyết thống gì, họ
sẽ xa lánh, từ bỏ người
đó, do vì là miếng mồi cho sân hận vậy. Này các Tỳ kheo, đây là pháp thứ sáu làm thỏa mãn và lợi ích cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận,
dù là nam hay nữ. Lại nữa, này các Tỳ kheo, một kẻ
thù mong muốn cho người nó thù như vầy : " Mong rằng
nó sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục!" Tại sao vậy ? Này các Tỳ kheo, kẻ thù không hoan hỷ
người nó thù sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Bây giờ,
người bị sân hận chi phối
này, là miếng mồi cho sân hận, bị sân hận
thống trị, làm các ác hạnh với thân, nói lời
ác với khẩu, và nghĩ điều ác với ý, khi thân hoại
mạng chung, sanh vào
trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục do vì là miếng mồi cho sân hận
vậy. Này các Tỳ kheo, đây
là pháp thứ bảy làm thỏa mãn và lợi ích cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận,
dù là nam hay nữ.
Bảy
pháp này, này các Tỳ kheo, làm lợi
ích và thỏa mãn cho kẻ thù xảy ra đối
với một người sân hận,
dù là nam hay nữ.
Kẻ
sân hận xấu xí
Đau khổ khi nằm
ngủ,
Được
các điều lợi ích,
Lại
cho là bất lợi.
Sân hận, nó đã thương,
Với
thân và lời nói,
Làm mồi cho sân hận,
Tài sản bị
tiêu vong.
Bị
sân hận điên loạn
Danh dự bị
hủy diệt,
Bà con cùng bạn bè,
Lánh xa người sân hận.
Sân hận sanh bất
lợi,
Sân hận giao động
tâm,
Sợ
hãi sanh từ trong,
Người
ấy không biết rõ.
Sân hận không biết
lợi,
Sân hận không thấy
pháp… (A. iv, 94)
Và,
‘ Như một
khúc gỗ từ giàn hỏa thiêu, bị
cháy cả hai đầu, khúc giữa lại bị
thối, chẳng dùng làm gỗ (xây dựng ) ở
làng, cũng chẳng dùng làm
gỗ ở rừng được,
Ta nói, một người làm mồi cho sân hận cũng thế’ (A.ii, 95, Iti.90)
Nếu
bây giờ mi sân hận, mi sẽ là một
người không thực hành lời dạy của
Đức Thế Tôn, do lấy sân hận đáp lại
người sân hận, mi còn tệ hơn người
sân ấy và không thắng được cuộc
chiến khó thắng; chính mi sẽ làm cho mi những điều vốn
chỉ có lợi cho kẻ thù, làm cho kẻ
thù thỏa mãn, và mi cũng
chẳng khác gì khúc gỗ ở giàn hỏa
thiêu.
Nếu,
sự tức giận của
hành giả lắng xuống khi cố
gắng và nổ lực theo cách này, thì tốt. Bằng
không, hành giả nên loại trừ sự
khó chịu bằng cách nhớ lại một
điều gì đó nơi người ấy
đã được chế ngự, trong sạch,
cổ vũ cho niềm tin khi nhớ đến.
Vì một người
có thể chế ngự hành vi nơi
thân của mình với sự chế
ngự trong quá trình thực hiện một nhiệm
vụ rộng lớn nào đó đã được
mọi người biết, mặc
dù những hành vi về lời nói và ý nghĩ không được chế
ngự. Thời những khẩu
hành và ý hành ấy cần phải được
bỏ qua và chỉ nhớ đến
sự chế ngự nơi
thân hành của người ấy mà thôi.
Một
người khác có thể chế ngự
được hành vi về lời nói của
mình, và sự chế ngự của
anh ta mọi người đều biết
–anh ta có thể lanh lợi tự nhiên trong việc
tiếp đón (khách) một cách lịch thiệp, dễ
nói chuyện, tương đắc, cởi
mở, biết tôn trọng trong cách nói và có thể diễn giảng
Pháp (Dhamma) với chất giọng ngọt
ngào, giải thích Pháp với văn cú đầy đủ - mặc
dù hành vi về thân và ý của anh ta không được chế ngự.
Thời hai hành vi sau nên
bỏ qua và chỉ nhớ sự
chế ngự nơi khẩu
hành của người ấy mà thôi.
Trong khi một người khác có thể
chế ngự được hành vi ý thức
của mình, và sự chế ngự
của anh ta được thể hiện
trong lúc lễ bái tại các điện thờ v.v… rất
hiển nhiên với mọi người.
Vì khi một người không có sự chế ngự
trong tâm đảnh lễ tại các điện
thờ (Phật, xá-lợi) hay tại
cây Bồ đề hoặc đảnh
lễ các bậc Trưởng lão, họ
không làm điều ấy một cách cẩn
trọng, và khi ngồi trong giảng đường hay nghe Pháp, tâm họ phóng đi lung tung hay ngủ gà ngủ
gật. Ngược lại, người
tâm được chế ngự đảnh
lễ một cách thận trọng và có suy nghĩ, nghe Pháp một cách chăm chú, ghi nhớ pháp, và biểu lộ niềm
tin trong tâm của mình
qua thân và khẩu. Vì thế, người khác chỉ
có thể chế ngự được
hành vi ý thức của mình, dù thân và khẩu không được chế ngự.
Thời hãy nhớ đến sự
chế ngự nơi hành vi ấy
và bỏ qua thân và khẩu hành của họ.
Nhưng
có thể một người khác thậm
chí không có một hành vi
nào trong ba hành vi này được
chế ngự nơi họ.
Thời lòng bi mẫn đối với
người đó phải được khơi
dậy như vầy: Mặc
dù hiện tại hắn ta đang lang thang trong thế giới loài người,
tuy nhiên sau một số ngày nào đó hắn ta sẽ thấy
mình nơi (một trong) tám đại địa ngục
hay nơi mười sáu địa ngục nổi
tiếng. Thì sự khó chịu cũng lắng
dịu nhờ lòng bi mẫn vậy.
Vẫn
có một người khác cả ba hành vi đều được chế
ngự. Trong trường hợp như
vậy hành giả có thể nhớ
đến bất cứ hành vi nào trong ba hành vi nơi người ấy
mà hành giả thích nhất; vì sự tu tập
tâm từ đến với một
người như vậy rất
dễ.
Và để làm rõ ý nghĩa bài kinh sau đây từ quyển V của
Tăng Chi Kinh (Anguttara Nikāya) sẽ
được trích dẫn đầy đủ:
‘ Này các Tỳ kheo, có năm cách xua tan hiềm
hận, hiềm hận khởi
lên ở một chỗ nào nơi
một vị Tỳ kheo, có thể được xua tan một
cách hoàn toàn.’
Nhưng
nếu sự khó chịu vẫn
khởi lên bất chấp những
nổ lực của hành giả,
thời hành giả tự nên cảnh
tỉnh mình như sau:
‘ Nếu
như có kẻ thù làm hại
Mi biết rồi
lãnh vực của y
Sao lại còn tự
hại thân mình
Tâm mi? Đâu phải lãnh vực của nó.
Với
nước mắt mi từ bỏ
gia đình
Họ
cũng nhân từ và giúp ích.
Thế
sao không từ bỏ kẻ thù,
Sân hận đem hại
đến cho mi?
Sân hận này gặm
mòn tận gốc
Mọi
giới đức mi từng gìn giữ-
Hỏi
còn ai ngu ngốc như mi?
Người
kia làm những điều bất thiện.
Vậy
là mi bực, đúng không?
Có nghĩa là mi muốn bắt chước
Những
lỗi lầm mà hắn phạm
chăng?
Nếu
người khác, gây nên phiền muộn,
Với
hành vi khả ố của mi,
Sao để cho nổi
lên sân hận,
Và làm như hắn
muốn mi làm?
Nếu
như mi nổi giận, thì sao
Mi làm hắn khổ,
hay không khổ!
Dù đã đau do sân mang lại
Chắc
chắn mi bị phạt bây giờ.
Nếu
kẻ thù do sân mù quáng
Khởi
sự trên đường khổ bước
đi
Liệu
mi có nổi sân như hắn
Nối
gót theo đường khổ hay không?
Nếu
kẻ thù làm mi tổn hại
Lầm
lỗi do sân hận của mi
Thì hãy mau dập tắt nó đi,
Vì sân ấy thật
là phi lý.
Các pháp vốn sát na tồn
tại
Ngũ uẩn kia, qua đó họ
làm
Việc
khả ố, giờ cũng đã diệt,
Thế
thì mi giận với cái chi ?
Nó hại ai, và ai hại
lại nó
Chính sự hiện
hữu của mi
Mới
là nhân gây đau khổ
Vậy
cớ sao mi còn nổi sân?’
Nhưng
nếu khi đã tự cảnh tỉnh
mình như vậy mà sự tức
giận vẫn không lắng xuống, thì hành giả
nên xét đến sự kiện rằng
cả hành giả và người kia đều
là những chủ nhân của nghiệp
(kamma).
Ở
đây, trước hết hành giả nên xét lại điều này nơi
tự thân: Bây giờ điều quan trọng
của việc mi nổi sân với
hắn là gì? Chẳng phải nghiệp
(kamma) bắt nguồn từ sân hận
này của mi sẽ dẫn đến
sự tự hại mình sao? Và mi là chủ nhân của
nghiệp, là kẻ thừa tự
của nghiệp, nghiệp là cha mẹ,
là quyến thuộc, là nơi nương
nhờ của mi; mi sẽ trở thành kẻ
thừa tự những nghiệp
mà mi đã làm. Và nghiệp
mà mi làm đây không phải
là nghiệp mang mi tới sự giác ngộ
viên mãn, đến sự giác ngộ không tuyên bố (Độc Giác Phật)
hay đến đẳng cấp của
vị đệ tử Phật,
hoặc đến bất kỳ địa
vị nào như địa vị
của phạm thiên hay Đế Thích (Sakka), hay ngai vàng
của một Chuyển Luân Vương,
hay một vị vua thường v.v..., mà đúng hơn đây là loại
nghiệp sẽ dẫn đến
sự xa rời Giáo Pháp của mi, thậm chí đến địa
vị của một người
ăn những vật bỏ đi v.v.., và đến
nhiều loại khổ khác trong các địa
ngục, và vân vân. Do làm
(nghiệp) này mi chẳng khác gì một người muốn
đánh người khác lại lượm một
hòn than hồng đang cháy
hay một cục phân nhơ nhớp trong tay và trước
hết tự làm phỏng tay mình hay làm dơ tay mình vậy.
Sau khi đã xét lại quyền sở
hữu của nghiệp nơi
tự thân theo cách này,
hành giả cũng nên suy xét
nó nơi người khác nữa: và điều quan trọng của việc
hắn nổi sân với ta là gì? Chẳng
phải nghiệp (kamma) bắt nguồn từ
sân hận này của hắn sẽ
dẫn đến sự tự
hại mình sao? Vì hắn là chủ nhân của
nghiệp, là kẻ thừa tự
của nghiệp, nghiệp là cha mẹ,
là quyến thuộc, là nơi nương
tựa của hắn; hắn
sẽ trở thành kẻ thừa tự
của những nghiệp mà hắn
đã làm. Và nghiệp mà hắn đang làm đây không phải là loại nghiệp
mang hắn tới sự giác ngộ
viên mãn, đến sự giác ngộ không tuyên bố (Độc Giác Phật)
hay đến đẳng cấp của
vị đệ tử Phật,
hoặc đến bất kỳ địa
vị nào như địa vị
của phạm thiên hay Đế Thích (Sakka), hay ngai vàng
của một Chuyển Luân Vương,
hay một vị vua thường v.v..., mà đúng hơn đây là loại
nghiệp sẽ dẫn đến
sự xa rời Giáo Pháp của mi, thậm chí đến địa
vị của một người
ăn những vật bỏ đi v.v.., và đến
nhiều loại khổ khác trong các địa
ngục, và vân vân. Do làm
(nghiệp) này hắn chẳng khác gì một
người muốn ném bụi vào người
khác lại đứng ngược gió và chỉ
lãnh bụi đầy mình mà thôi.
Vì điều nay được
Đức Thế Tôn nói đến:
‘ Khi kẻ ngu hại
người vô hại,
Người
thanh tịnh, không làm điều lầm lỗi,
Điều
ác ấy sẽ quay lại kẻ
ngu,
Như
ngược gió mà nhè người quăng bụi.’
(Dhp. 125)
Nhưng
nếu sân hận vẫn không lắng
xuống khi hành giả suy xét về nghiệp theo cách này, thì hành giả nên suy xét đến những đức
đặc biệt trong cách cư xử của
Đức Phật trước đây.
Đây là cách suy xét: Bây giờ mi, người đã xuất
gia, chẳng phải là khi Đạo Sư (Đức
Phật) của mi còn là một vị Bồ
-tát, trước khi tìm được sự giác ngộ
viên mãn, lúc vẫn còn
đang thực hành để chu toàn các ba-la-mật suốt bốn
A-tăng-kỳ và một trăm
ngàn đại kiếp, ngài đã không để cho sân hận làm ô nhiễm tâm ngài ngay cả khi những kẻ
thù cố tìm mọi cơ hội
để giết hại ngài đó sao? Chẳng
hạn như, trong chuyện tiền thân Sīlavant (Sīlavant Jātaka 1, 216) khi những người bạn
ngài đồng đứng lên để ngăn vương quốc
ba trăm lý của ngài bị chiếm giữ
bởi một vị vua thù nghịch,
người đã bị một viên đại
thần độc ác xúi dục và chính hoàng hậu đã gieo sự hận thù đó vào tâm trí ông ta, nhưng ngài không để cho những người
bạn của mình cầm vũ khí. Lại nữa, khi ngài bị
chôn sống, cùng với một ngàn người
bạn, đất lấp lên tới
cổ trong một cái hố mà người
ta đào trong nghĩa địa,
ngài cũng không khởi một ý sân hận. Và, sau khi tự cứu mạng
mình bằng một nổ lực
anh hùng được giúp đỡ bởi những
con chó rừng cào đất ra khi chúng đến để ăn những
xác chết, ngài đã đi về phòng ngủ của mình với
sự trợ giúp của một
phi nhân và nhìn thấy kẻ thù của mình đang nằm
trên chính giường của ngài, ngài không nổi giận mà đối
xử với y như một
người bạn, cùng nhau đưa ra lời hứa,
và rồi Ngài tuyên bố:
‘Lòng khát khao dũng cảm
Bậc
trí không thất vọng;
Ta đã thấy chính ta
Như
ta đã ước nguyện.
Và trong chuyện tiền thân Khantivādi (Khantivādi Jātaka), vua Kasi
ngu ngốc hỏi ngài, ‘Này nhà sư, ông dạy pháp gì?’ và ngài trả lời,
‘Ta dạy pháp nhẫn nhục’, và khi nhà vua cho người đáng ngài bằng
roi gai và chặt đứt tay chân của ngài, ngài vẫn không cảm thấy chút sân hận
nào (Ia. Iii, 39)
Có lẽ khi một
người trưởng thành và thực lòng xuất gia sống đời
không gia đình hành động
theo cách này thì không có gì là kỳ diệu
lắm; nhưng khi còn là một đứa trẻ
thơ, Ngài cũng đã làm như vậy. Vì trong chuyện
tiền thân Cūla-
Dhammapāla ( Cūla- Dhammapāla Jātaka) tay chân ngài đã bị phụ
vương, đức Vua Mahā Patāpa, ra lệnh cho quân lính cắt đứt giống
như bốn búp măng, và mẫu hậu đã than khóc ngài như thế
này:
‘Ôi đôi tay con ta, Dhammapāla,
đã bị cắt đứt
Đôi tay đã từng được tắm
trong trầm hương;
Con là kẻ thừa
tự của toàn cõi đất;
Hỡi
đức Vua, ta nghẹn thở mất
đi thôi!’
(Jā, iii, 181)
Thế
mà cha ngài, vẫn không thỏa mãn, còn ra lệnh cho cắt đứt luôn đầu
ngài. Nhưng ngay cả lúc đó ngài cũng không chút dấu vết sân hận,
vì lẽ ngài đã quyết định vững
chắc: ‘ Giờ là lúc để ta chế ngự
tâm của ta; này hỡi Dhammapāla kia, hãy vô tư đối với
bốn người này, đó là, đối với người
cha đang ra lệnh cắt đầu ngươi,
đối với người đang chặt
đầu ngươi, đối với
người mẹ đang than khóc của ngươi, và với
chính bản thân ngươi.’
Và có lẽ, một
chúng sinh được làm người hành động theo cách này thì không có
gì đáng kinh ngạc lắm; nhưng khi làm thú vật
ngài cũng đã hành động như thế. Vì trong lúc Đức
Bồ tát còn là một con voi có tên là Chaddanta,
ngài đã bị người ta đâm vào rốn bằng một
mũi lao tẩm thuốc độc. Nhưng
ngay cả như vậy ngài cũng không để
cho sân hận đối với người
thợ săn đã đâm ngài bị thương làm ô nhiễm
tâm của ngài, vì như chuyện kể:
‘ Con voi khi bị đâm bằng một
mũi lao,
Đã nói với thợ
săn với tâm không sân hận:
“Mục
đích của ngươi là gì? Lý do tại sao
Ngươi
lại giết ta như vậy?
Mục đích để làm gì?”
(Jā. V, 51)
Và khi voi nói như vậy, người
thợ săn trả lời ‘ Thưa
ngài, hoàng hậu của vua Kāsi phái tôi đến đây để lấy
cặp ngà của ngài’, để hoàn thành ước muốn của
hoàng hậu, ngài đã cắt cặp ngà của
mình, cặp ngà mà sự rực rỡ
tuyệt vời của nó chiếu
sáng với những tia sáng sáu màu, và trao
nó cho người thợ săn.
Lại
nữa, khi đức Bồ tát làm Khỉ
Chúa , người đàn ông mà
ngài đã cứu mạng hắn bằng
cách kéo hắn lên khỏi vực đá nghĩ:
‘Đây món ăn cho người
Như
những thú rừng khác,
Vậy
sao người đang đói
Không giết khỉ
để ăn?
Ta sẽ đi tự
tại
Lấy
thịt khỉ để dành;
Ta sẽ vượt
hoang địa
Với
thịt khỉ làm lương.’
(Jā. v. 71)
Nghĩ rồi hắn
liền lượm một hòn đá ném mạnh
vào đầu ngài. Nhưng khỉ chúa nhìn hắn
với đôi mắt đẫm lệ
và nói,
‘Ồ
chớ có làm thế,
Bởi
vì nếu không thì
Số
phận mà ngươi gặt
Sẽ
cản trở lâu dài
Đã có những người
khác
Bị
những nghiệp như vậy
Như
ngươi làm hôm nay.’
Và với tâm không sân hận,
bất chấp sự đau đớn,
ngài đã đưa người đàn ông ấy đến cuối
cuộc hành trình của hắn một
cách an toàn.
Khi làm Long vương Campeyya cũng vậy, ngài không để cho sân hận khởi lên trong tâm lúc bị một
ông thầy bắt rắn đối
xử một cách độc ác, vì như chuyện kể,
‘Ta đang sống trong Pháp
Giữ
giới Bát quan trai
Thầy
rắn tới bắt ta
Diễn
trò tại cổng thành
Màu sắc nào hắn
nghĩ,
Màu xanh, vàng hay đỏ,
Tùy theo ý hắn nghĩ
Ta biến màu hắn
muốn;
Ta biến đất
thành nước,
Và biến nước
thành đất.
Nếu
như ta nổi giận
Ta có thể đốt
cháy
Khiến
y thành tro tàn,
Nếu
không làm chủ tâm
Ta đã làm hỏng giới;
Và ai làm hỏng giới
Không thể nào đến
đích.’
Còn khi ngài làm Long Vương Saṇkhapāla, lúc bị
gánh đi trên một cây sào
bởi mười sáu cậu bé trong làng sau khi chúng
đã dùng những mũi giáo nhọn đâm ngài bị thương ở
tám chỗ và nhét dây gai
vào miệng vết thương, chúng còn làm cho ngài đau đớn, quằn quại
khi xỏ một sợi dây rắn
chắc qua mũi ngài và kéo
lê để cho thân ngài va
vào mặt đất, mặc dù chỉ
cần liếc một cái ngài có thể
biến những đứa trẻ
ấy thành than, song ngài
thậm chí không tỏ chút dấu vết
sân hận nào trên đôi mắt, vì như chuyện kể:
‘ Này Ālāra,
Ngày mười bốn,
mười lăm,
Ta thường giữ
Trai Giới,
Mười
sáu đứa bé đến
Mang theo dây và giáo.
Chúng tách mũi ta ra,
Và qua khe hở đó
Chúng luồn vào sợi
dây
Kéo lê ta như thế,
Dù đau đớn, quằn
quại,
Ta không để sân hận
Quấy
động ngày trai giới.’
(Jā.v, 172)
Ngài đã thực hiện
không chỉ những điều kỳ diệu
ấy mà còn nhiều điều kỳ diệu
khác như đã được kể trong Mātuposaka Jākata (Jā, iv,90). Bây giờ, ở mức
độ cao nhất sẽ là không thích hợp
và không xứng đáng để cho mi khởi lên những ý nghĩ tức giận, bởi
lẽ mi đang cố gắng để
được giống như vị
Đạo Sư của mi, rằng
Đức Thế Tôn đã đạt đến Toàn Giác và là bậc
có đức kham nhẫn đặc biệt
không ai sánh bằng trong
thế gian với các hàng chư thiên của nó.
Nhưng
nếu, khi hành giả đã suy xét đến những phẩm
chất đặc biệt trong cách ứng
xử trước đây của bậc Đạo
Sư, mà sự tức giận
vẫn không lắng xuống, bởi
vì từ lâu hành giả đã quen làm nô lệ cho những phiền
não, thời hành giả nên hồi tưởng
đến các bài kinh(Sutta) đề cập đến
sự vô thỉ (không khởi đầu) của
vòng sinh tử luân hồi.
Đây là những gì Kinh nói :
‘ Này các Tỳ kheo, không dễ gì tìm được một chúng sinh nào trước
đây chưa từng là mẹ của
các ông, là cha của các
ông, là anh của các ông,
là chị của các ông, là con trai của các ông, là con gái của các ông’ (S.ii, 189-190)
Do vậy, hành giả
nên nghĩ về người đó như vầy :
‘Hình như người
này, khi là mẹ ta trong
quá khứ đã mang ta trong
bào thai cả mười tháng trường và đã lau chùi phân, nước tiểu, nước rãi, nước mũi v.v... cho ta không hề nhờm gớm,
coi đó như thể trầm hương
vàng, và để ta đùa chơi trên lòng bà, cho ta bú mớm, bồng bế
ta đi đây đó. Và người
này khi là cha ta đã phải
đi trên những con đường mòn dê đi và những con đường làm trên những cột trụ
cheo leo , v.v... để theo
đuổi việc buôn bán, đã vì ta mà liều mạng đi vào trong chiến
trận giữa hai hàng quân, hay trên những chiếc tàu vượt
đại dương và làm những việc khó khăn khác. Bằng
phương tiện này hay phương tiện khác, ông đã đem của cải
về nhà nghĩ là để nuôi dưỡng con cái. Và khi là anh, là chị, là con trai, con gái của ta, người này đã giúp ta việc này, việc nọ. Vì thế,
thật không xứng đáng cho ta để ôm ấp oán thù người
ấy trong tâm.’
Nhưng
nếu hành giả vẫn không thể
dập tắt ý nghĩ đó theo cách trên,
hành giả nên ôn lại những lợi
ích của tâm từ như thế
này : Bây giờ, mi là người xuất gia, chẳng
phải Đức Thế Tôn đã nói như
sau :
‘ Này các Tỳ kheo, khi từ tâm giải thoát được
trau dồi, tu tập, được thực
hành thường xuyên, được làm cho thành cỗ xe, làm cho thành nền tảng, được
thiết lập, cũng cố vững chắc,
và thọ trì thích hợp, mười một
phước báu có thể trông đợi. Thế nào là mười
một ? Người ấy ngủ
trong an lạc, thức trong an lạc, không có những ác mộng, người
ấy thân ái đối với mọi
người, thân ái đối với các hàng phi nhân, chư thiên hộ
trì người ấy, lửa, thuốc
độc, và vũ khí không làm
hại được người ấy,
tâm dễ đắc định, về
mặt an tịnh, chết không rối
loạn, nếu không đắc cao hơn, vị
ấy sẽ tái sanh vào cõi Phạm Thiên’(A.v, 342)
Nếu
không chấm dứt những ý nghĩ hiềm
hận, kể như mi phủ
nhận những lợi ích này vậy.
Nhưng
nếu hành giả vẫn không chấm
dứt (sân hận) theo cách vừa nói, hành giả nên cố phân giải
thành các yếu tố. Như thế
nào ? Bây giờ mi, người đã xuất gia, khi mi tức giận hắn,
mi tức giận với cái gì ? Phải
chăng mi tức giận tóc ? Hay lông ? Hay móng
(tay, chân) ? Hay mi tức
giận nước tiểu ? Hoặc,
phải chăng mi tức giận yếu
tố đất (địa đại)
trong tóc v.v... ? Hay yếu
tố nước ? Hay yếu tố lửa
? Hay phải chăng mi tức giận yếu
tố gió ? Hay trong số năm uẩn hay mười
hai xứ hay mười tám giới mà với những
yếu tố đó vị này được
gọi bằng tên như vậy, như
vậy, thì cái nào, có phải mi tức giận
sắc uẩn ? Hay thọ uẩn ? Hay tưởng
uẩn ? Hay hành uẩn ? Hay thức uẩn ? Hay có phải
mi tức giận nhãn xứ? Hay sắc xứ
? Hay mi tức giận ý xứ ? Hay mi tức
giận ý xứ ? Hay mi tức giận pháp xứ?
Hay phải chăng mi tức giận nhãn giới?
Hay phải chăng mi tức giận ý giới?
Hay pháp giới? Hay ý thức giới? Vì khi hành giả
cố phân giải thành các yếu tố, sự
tức giận của hành giả
không thể tìm thấy chỗ đứng,
giống như hạt cải
(đặt) trên đầu mũi dùi hay bức vẽ trên hư
không.
Nhưng
nếu hành giả không thể thực hiện
sự phân giải thành các yếu tố được,
hành giả nên cố gắng tặng
một món quà. Món quà có
thể do bản thân của hành giả tặng cho người
kia hay tự mình chấp nhận món quà của
người kia. Tuy nhiên nếu sự nuôi mạng
(sinh kế) của người kia không thanh tịnh và những
món vật dụng của họ
không thích hợp để sử dụng,
thì chính hành giả phải là người cho. Và nơi
người làm điều này sự khó chịu
đối với người kia sẽ
hoàn toàn lắng xuống. Và nơi người kia ngay cả
sự oán hận đã từng bám sát họ
từ đời kiếp trước
lúc đó cũng hạ xuống ngay, như đã xảy ra đối
với ngài trưởng lão cao hạ, người đã nhận
được một bát nước trao cho ngài tại
tu viện Cittalapabbata do
một vị trưởng lão thấp
hạ chuyên ăn trong bát
[1] người đã ba lần bị ông ta làm cho phải
rời chỗ trú ngụ, và vị
trưởng lão này đã dâng tặng cái bát ấy với những
lời này, ‘Bạch ngài, cái bát này đáng giá
tám ducats đã được mẹ tôi, một tín nữ,
dâng cúng và nó được nhận một cách chính đáng, mong cho tín nữ hiền thiện
ấy có được phước báu.’
Chú thích: [1] Chuyên ăn trong
bát ở đây muốn ám chỉ một
vị tu pháp khổ hạnh, chỉ
ăn những đồ ăn khất thực
trong bình bát mà thôi.
Hành động dâng tặng
hay bố thí này thực là có hiệu quả. Và điều
này đã được nói như sau:
‘Tặng
quà (để) thuần hóa kẻ chưa
thuần,
Tặng
quà cho ta mọi sự tốt lành;
Nhờ
tặng quà (mà) tình thế bớt căng,
Và hạ mình để
nói lời tử tế.’
Trên đây là những gì được đưa
ra trong Thanh Tịnh Đạo liên quan đến việc làm thế
nào để loại trừ sân hận.
Tuy nhiên chỉ khi hành giả đắc Bất
Lai Thánh Đạo, lúc đó sân
mới không còn khởi lên nữa mà thôi.
III. Hôn trầm và thụy miên
Trong Anguttara Nikāya (Tăng Chi
Kinh), Đức Phật đưa ra một
hình ảnh để minh họa hôn trầm
và thụy miên như sau:
“ Nếu
có một lu nước, phủ trùm với
rêu và thủy tảo, một người
với thị lực bình thường,
nhìn vào lu nước ấy, không thể nhận ra và đúng với
hình ảnh của khuôn mặt mình. Cũng vậy,
khi tâm bị ám ảnh bởi hôn trầm
và thụy miên, hành giả không thể thấy một
cách đúng đắn lối thoát khỏi hôn trầm và thụy miên đã sanh; vì lý do đó hành giả không thể thấy và hiểu
đúng lợi ích của bản thân, không thấy
và hiểu đúng lợi ích của kẻ
khác, không thấy và hiểu đúng lợi ích của cả
hai; những pháp hành giả đã thuộc lòng trước
đây còn không đi vào tâm (không nhớ
được) nói gì đến những pháp không thuộc.’
Trong Eka-Nipāta của Anguttara Nikāya (Tăng Chi
Kinh), Đức Phật nói như thế này:
‘ Này các Tỳ Kheo, Ta không thấy một pháp nào khác có sức mạnh
khiến cho hôn trầm và thụy miên chưa
sanh, sanh khởi, hoặc, nếu đã sanh, khiến
cho mạnh mẽ và tăng trưởng, như không hăng hái, lơ
đãng, bie61ng nhác dài thây, buồn
ngủ sau khi ăn và tâm trí
thụ động.’
Nơi
người nào tâm trí thụ động, hôn trầm
và thụy miên nếu chưa sanh, sẽ
sanh khởi, hoặc nếu đã sanh, được
mạnh mẽ và tăng trưởng.’
‘Này các Tỳ kheo, Ta không thấy một pháp nào khác có sức mạnh
ngăn hôn trầm và thụy miên, nếu chưa sanh, không cho sanh khởi, nếu
đã sanh, khiến cho được đoạn trừ,
như yếu tố khơi
dậy nghị lực của
một người (tinh cần giới), yếu
tố khơi dậy sự
nỗ lực (tinh tấn giới), yếu
tố khơi dậy sự
nỗ lực liên tục của một
người (dõng mãnh giới).
Nơi
người nào phấn đấu một
cách đầy nghị lực, hôn trầm
và thụy miên chưa sanh, sẽ không sanh,hôn trầm và thụy miên nếu
đã sanh, được đoạn trừ.’
Chú giải kinh Đại
Niệm Xứ (Mahā Satipaṭṭthāna Sutta) tuyên bố rằng có sáu pháp đưa
đến sự đoạn trừ
của hôn trầm và thụy miên:
Biết
rằng ăn quá no là một nguyên nhân gây ra hôn trầm và thụy miên.
Thay đổi oai nghi;
Nghĩ về tướng
ánh sáng;
Ở
nơi thoáng khí;
Bạn
lành;
Nói chuyện thích hợp.
Những
pháp sau cũng hữu ích
trong việc khắc phục hôn trầm
và thụy miên:
1. Niệm sự
chết
Như:
‘ Hôm nay nhiệt tâm làm;
ai biết chết (sẽ đến)
ngày mai?’
2. Tưởng khổ
trong vô thường
Như
đã được nói trong kinh
Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh): ‘Nơi
vị Tỳ kheo quen thấy khổ trong vô thường
và thường xuyên áp dụng pháp quán này, thời một ý thức
thấm thía về sự nguy hiểm
của lười biếng, dễ
duôi, lơ đãng, thụ động và vô tư
lự sẽ được thiết
lập nơi vị ấy,
như thể vị ấy
đang bị đe dọa bởi một
tên sát nhân với thanh kiếm đã rút ra vậy.’
3. (Hoan) hỷ:
Như
đã nói trong Tương Ưng Kinh (Saṃyatta Nikāya): ‘ Khi tâm chậm chạp, không nhanh nhẹn,
thì đó không phải là lúc
thích hợp để tu tập các chi phần
giác ngộ sau: tịnh giác chi, định giác chi và xả giác chi, bởi vì một cái tâm không nhanh nhẹn khó có thể
khơi dậy được bằng
các chi phần ấy vậy.’
4. Quán tưởng về
cuộc hành trình tâm linh:
Như
đã tuyên bố trong Thanh Tịnh Đạo: ‘ Ta phải
bước đi trên con đường đó, con đường mà chư Phật, chư
Phật Độc Giác và các bậc Thánh Đệ Tử đã đi; nhưng
nếu là một con người biếng nhác thì làm sao có thể bước
đi trên con đường đó được.’
5. Quán tưởng về
sự vĩ đại của Bậc
Đạo Sư:
Như
đã tuyên bố trong Thanh Tịnh Đạo: ‘ Dốc
hết tinh tấn lực đã được
Bậc Đạo Sư của
ta khen ngợi, và trong sự chỉ dẫn
và giúp đỡ đệ tử không có ai sánh bằng
Ngài. Ngài được tôn kính
nhờ thực hành Pháp (Dhamma), chứ không bằng gì khác.’
6. Quán tưởng về
sự vĩ đại của di sản
Giáo Pháp:
Như
đã tuyên bố trong Thanh Tịnh Đạo: ‘Ta phải
trở thành người chủ sở
hữu của di sản vĩ đại,
gọi là Diệu Pháp này, còn người lười biếng
không thể nào nắm giữ Giáo Pháp.’
7. Làm thế nào để
khích lệ tâm:
Như
đã tuyên bố trong Thanh Tịnh Đạo: Hành giả
khích lệ tâm như thế nào lúc tâm cần
khích lệ? Nếu do chậm chạp
trong việc áp dụng trí tuệ hay do chưa đạt đến
lạc của khinh an, tâm của hành giả cùn nhụt không sắc
bén, thì hành giả nên
đánh thức nó bằng sự hồi
tưởng lại tám pháp động (tâm). Tám pháp đó là:
sanh, hoại, bệnh và chết; cái khổ trong các cõi khổ (địa ngục,
ngạ quỷ, súc sinh...);cái khổ của sanh tử
luân hồi trong quá khứ, cái khổ của sanh tử
luân hồi trong tương lai, cái khổ ở hiện
tại gốc ở việc
phải tìm kiếm thức ăn.
8. Làm thế nào để
vượt qua hôn trầm
Một
thuở nọ Đức Thế
Tôn nói với Tôn giả Mục Kiền
Liên như vầy: ‘Này Mục Kiền Liên, có phải
ông ngủ gật? Này Mục Kiền Liên, có phải
ông ngủ gật?’ – ‘Thưa vâng, bạch Đức Thế
Tôn.’
‘ (1) Vậy thì, này Mục
Kiền Liên, bất cứ khi nào ý nghĩ buồn
ngủ xảy đến, ông không nên tác ý đến ý nghĩ ấy,
ông không nên thường
xuyên trú trong ý nghĩ ấy.
Nhờ làm như vậy, có thể
cơn buồn ngủ sẽ
biến mất.’
‘ (2) Nhưng nếu
làm như vậy mà cơn buồn
ngủ không biến mất, ông nên nghĩ tưởng
và suy xét trong tâm về
Pháp (Dhamma) như ông đa
được nghe và học nó, và ông nên ôn lại trong tâm pháp ấy. Nhờ làm như
vậy, cơn buồn ngủ
sẽ biến mất.’
‘ (3) Nhưng nếu
làm như vậy mà cơn buồn
ngủ không biến mất, ông nên học
thuộc lòng Pháp (Dhamma)
với từng chi tiết của nó, như
ông đã được nghe và học, và ông nên ôn lại trong tâm pháp ấy. Nhờ làm như
vậy, có thể cơn buồn
ngủ sẽ biến mất.
‘ (4) Nhưng nếu
làm như vậy mà cơn buồn
ngủ không biến mất, ông nên lắc
lỗ tai, và chà xát chân
tay với lòng bàn tay của ông. Nhờ làm như vậy,
có thể cơn buồn ngủ
sẽ biến mất.
‘ (5) Nhưng nếu
làm như vậy mà cơn buồn
ngủ không biến mất, ông nên đứng
dậy, rời khỏi chỗ
ngồi, và sau khi rửa mắt với
nước mát, ông nên nhìn
quanh các hướng và nhìn
lên các vì sao trên bầu
trời. Nhờ làm như vậy,
có thể cơn buồn ngủ
sẽ biến mất.’
‘ (6) Nhưng nếu
làm như vậy mà cơn buồn
ngủ không biến mất, ông nên thiết
lập vững chắc tưởng
ánh sáng: ngày như thế nào,đêm cũng như vậy; đêm như
thế nào, ngày cũng như vậy. Với
một cái tâm trong sạch và không bị tắc nghẽn
như thế, ông nên tu tập một ý thức
đầy đủ sáng suốt. Nhờ làm như
vậy, có thể cơn buồn
ngủ sẽ biến mất.’
‘ (7) Nhưng nếu
làm như vậy mà cơn buồn
ngủ không biến mất, ông nên nhận
biết đâu là phía trước,đâu là phía sau, đi lên và
đi xuống, với các căn hướng bên trong, với tâm không đi ra ngoài. Nhờ làm như vậy,
có thể cơn buồn ngủ
sẽ biến mất.’
‘ (8) Nhưng nếu
làm như vậy mà cơn buồn
ngủ không biến mất, ông có thể
nằm xuống bên hông phải, trong thế nằm của
con sư tử, chân này trên chân kia
–chánh niệm, và tỉnh giác, giữ trong tâm ý nghĩ đứng dậy. Sau khi đã thức
dậy, ông phải nhanh chóng đứng lên, nghĩ rằng, “Ta sẽ không đắm chìm trong sự hưởng thụ
thú nằm và tựa, trong sự hưởng thụ
ngủ nghỉ!”
‘ Này Mục Kiền
Liên, ông hãy nên học tập như vậy!’
9. Suy xét về năm nguy hiểm đang đe dọa
Trong Cuốn Năm của
Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh), Đức
Phật nói rằng có năm nguy hiểm đang đe dọa:
‘ Này các Tỳ kheo, nếu vị Tỳ kheo nào nhìn thấy năm nguy hiểm
đang đe dọa này, thật là vừa đủ
cho vị ấy để sống
không dễ duôi, nhiệt tâm, với tâm quyết định thành tựu
những gì chưa thành tựu, đạt đến
những gì chưa đạt đến,
chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ. Năm nguy hiểm ấy là gì?’
‘ (1) Ở đây, này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo suy xét như
vầy: “ Bây giờ ta còn trẻ, còn thanh niên, tuổi trẻ, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong giai đoạn đầu của
cuộc đời. Nhưng một
thời nào đó sẽ đến khi mà thân xác này sẽ bị
gò bó trong tuổi già. Mà
người bị tuổi già khuất
phục thì không dễ gì suy tưởng những Lời
Dạy của Đức Phật,
thật không dễ cho người ta để
sống trong những nơi hoang vu hay rừng
núi, hay trong những chỗ ở hẻo
lánh. Trước khi tình trạng không ai muốn này,tình trạng không đáng ưa, không vừa ý này, đến với ta, trước
khi đó, ta hãy thu hết
nghị lực để thành tựu
những gì chưa thành tựu, đạt đến
những gì chưa đạt đến,
chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ, nhờ chứng
đạt trạng thái đó ta sẽ sống an vui, dù có bị
già.”
‘ (2) Lại nữa,
này các Tỳ kheo, vị Tỳ
kheo suy xét như vầy: “Bây giờ ta không ốm đau, không bệnh tật, khả
năng tiêu hóa của ta làm
việc trơn tru, thể chất của
ta không quá lạnh và
không quá nóng, được quân
bình và thích hợp cho việc nổ lực
tinh tấn. Nhưng một thời
nào đó sẽ đến khi mà thân này bị gò bó trong bệnh tật. Mà người
bị ốm đau bệnh tật
thì không dễ gì suy tưởng những Lời
Dạy của Đức Phật,
thật không dễ cho người ta để
sống trong những nơi hoang vu hay rừng
núi, hay trong những chỗ ở hẻo
lánh. Trước khi tình trạng không ai muốn này,tình trạng không đáng ưa, không vừa ý này, đến với ta, trước
khi đó, ta hãy thu hết
nghị lực để thành tựu
những gì chưa thành tựu, đạt đến
những gì chưa đạt đến,
chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ, nhờ chứng
đạt trạng thái đó ta sẽ sống an vui, dù có bị
bệnh.”
‘ (3) Lại nữa,
này các Tỳ kheo, vị Tỳ
kheo suy xét như vầy, “ Bây giờ có được dồi
dào thực phẩm, mùa màng tươi tốt, dễ
nhận được đồ ăn khất
thực và của cúng dường. Nhưng một
thời nào đó sẽ đến khi mà nạn
đói, mùa màng hưn hỏng, sẽ khó mà có được
một bữa ăn khất thực,
khó mà sống được nhờ khất
thực và khó mà có các của cúng dường. Và trong nạn đói người ta phải di cư đến
những nơi ở đây thực
phẩn được thoải mái, và nơi
đó sự trú ngụ sẽ bị
tụ tập lại đông đúc. Mà chỗ
nào sự trú ngụ bị tụ
tập lại đông đúc người ta không dễ gì suy tưởng những Lời
Dạy của Đức Phật;
thật không dễ cho người ta sống
trong những nơi hoang vu hay rừng núi, hay trong những chỗ ở
hẻo lánh. Trước khi tình trạng không ai muốn này,tình trạng không đáng ưa, không vừa ý này, đến với ta, trước
khi đó, ta hãy thu hết
nghị lực để thành tựu
những gì chưa thành tựu, đạt đến
những gì chưa đạt đến,
chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ, nhờ chứng
đạt trạng thái đó ta sẽ sống an vui, dù có bị
nạn đói.”
‘ (4) Lại nữa,
này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo
suy xét như vầy, “ Bây giờ con người sống
trong hòa hợp và tình
thân thiện, sống trong tình bạn bè hữu nghị
như sữa hòa trong nước và nhìn nhau với cặp mắt
thiện cảm. Nhưng một
thời nguy hiểm sẽ đến,
tình trạng náo động giữa các bộ
tộc khi dân chúng phải leo lên xe để chạy trốn
và những người lâm vào cảnh sợ hãi phải
di chuyển đến những nơi
an toàn, và ở đó sự trú ngụ sẽ
bị tụ tập lại
và đông đúc. Mà chỗ nào sự trú ngụ bị
tụ tập lại và đông đúc người
ta không dễ gì suy tưởng những Lời
Dạy của Đức Phật;
thật không dễ cho người ta sống
trong những nơi hoang vu hay rừng núi, hay trong những chỗ ở
hẻo lánh. Trước khi tình trạng không ai muốn này,tình trạng không đáng ưa, không vừa ý này, đến với ta, trước
khi đó, ta hãy thu hết
nghị lực để thành tựu
những gì chưa thành tựu, đạt đến
những gì chưa đạt đến,
chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ, nhờ chứng
đạt trạng thái đó ta sẽ sống an vui, dù có sống
vào thời nguy hiểm.”
‘ (5) Lại nữa,
này các Tỳ kheo, vị Tỳ
kheo suy xét như vầy, “ Bây giờ Tăng Chúng (đoàn thể các vị Tỳ kheo ) sống
trong hòa hợp và tình
thân thiện, không cãi
nhau, sống an vui dưới một giáo lý. Nhưng
một thời sẽ đến
khi có sự chia rẽ trong Tăng Chúng. Và khi Tăng
Chúng bị chia rẽ người ta không dễ
gì suy tưởng những Lời Dạy
của Đức Phật; thật
không dễ cho người ta sống trong những
nơi hoang vu hay rừng núi, hay trong những chỗ ở
hẻo lánh. Trước khi tình trạng không ai muốn này,tình trạng không đáng ưa, không vừa ý này, đến với ta, trước
khi đó, ta hãy thu hết
nghị lực để thành tựu
những gì chưa thành tựu, đạt đến
những gì chưa đạt đến,
chứng ngộ những gì chưa
chứng ngộ, nhờ chứng
đạt trạng thái đó ta sẽ sống an vui, ngay cả
khi Tăng Chúng bị chia rẽ.”
Trong kinh Cara Sutta của Bộ Itivuttaka, Đức
Phật đưa ra một định
nghĩa rất rõ ràng về một vị
Tỳ kheo lười biếng và một vị
Tỳ kheo siêng năng. Trong bài kinh ấy,
Ngài nói như sau:
‘ Này các Tỳ kheo, nếu trong khi đang đi, một ý nghĩ tham dục hay một ý nghĩ sân hận
hay một ý nghĩ độc ác khởi lên nơi
một vị Tỳ kheo, và nếu vị ấy
không có phản kháng, không
có bỏ đi, không có xua đuổi, không có loại trừ và đưa
nó đến chỗ chấm dứt,
vị Tỳ kheo với thái độ như vậy
là thiếu nhiệt tâm và không sợ hãi làm điều bất thiện,
vị Tỳ kheo ấy được gọi
là lười biếng không ngừng và thường xuyên thụ động. Nếu
trong khi đang đứng... Nếu trong khi đang ngồi... Nếu trong khi đang nằm,
một ý nghĩ tham dục hay một ý nghĩ sân hận
hay một ý nghĩ độc ác khởi lên nơi
một vị Tỳ kheo, nếu vị Tỳ kheo không chấp
nhận nó, bỏ đi, xua đuổi, loại trừ
và đưa nó đến chỗ chấm
dứt, vị Tỳ kheo với thái độ như vậy
là có nhiệt tâm và biết sợ hãi làm điều
bất thiện, và được gọi
là tinh tấn không ngừng
và cương quyết không ngừng. ‘
Dù khi đi hay đứng
Dù khi ngồi hay nằm
Ai nghĩ những ý nghĩ
Độc
ác và trần tục-
Thời
đang theo tà đạo,
Cuồng
dại với si pháp.
Vị
Tỳ kheo như vậy
Không thể nào đạt
đến
Sự
Giác ngộ tối cao.
Dù khi đi hay đứng
Dù khi ngồi hay nằm
Ai diệt những
ý ấy
Vui thích trong việc diệt (những
tà ý)
Vị
Tỳ kheo như vậy
Sẽ
có ngày đạt đến
Sự
Giác ngộ tối cao.
Là một vị
Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, quý vị
được những người cư
sĩ hộ độ. Lãng phí cuộc đời sau khi thọ
dụng vật thực do tín thí cúng dường
là một điều đáng hổ thẹn. Như
quý vị phải cố gắng
có được tinh tấn lực như
Đức Phật đã nói.
Hoài nghi
Trong Tăng Chi Kinh (Anguttara Nikāya),
đã đưa ra một hình ảnh để
minh họa hoài nghi như sau:
‘ Nếu
có một bình nước bị vẩn
đục, bị khuấy động
và đầy bùn, cái bình này
được đặt ở chỗ
tôí tăm, rồi một người có thị
lực bình thường, nhìn vào bình, không thể nào nhận ra và thấy
đúng được khuôn mặt của mình trong nước
bùn đó. Cũng vậy, khi tâm
bị ám ảnh bởi hoài nghi, bị
áp đảo bởi hoài nghi, người ta không thể nào thấy đúng được
lối thoát khỏi hoài nghi đã được khởi lên ấy
; và như vậy họ cũng không thể
hiểu đúng và thấy đúng sự lợi ích của
bản thân, lợi ích của người
khác, và lợi ích của cả hai ; những
pháp đã thuộc lòng trước đây còn không đi vào tâm
(không còn nhớ được) nói gì đến những pháp không thuộc.’
Còn trong Eka- Nipāta của Anguttara Nikāya ( Tăng Chi
Kinh ), Đức Phật nói như vầy :
‘ Này các Tỳ kheo, Ta không biết một pháp nào có sức
mạnh như vậy, khiến
cho hoài nghi chưa sanh,
sanh khởi, hoặc hoài nghi nếu đã sanh, được mạnh mẽ
và tăng trưởng như phi lý tác ý.
Nơi
người nào không có như lý tác ý, hoài nghi chưa sanh, sẽ sanh khởi, hoặc hoài nghi đã sanh, có thể trở
nên mạnh mẽ và tăng trưởng.’
‘ Này các Tỳ kheo, Ta không biết một pháp nào khác có sức mạnh
như vậy, ngăn được sự sanh khởi
của hoài nghi, nếu chưa sanh, hoặc
hoài nghi, nếu đã sanh
khiến cho được đoạn trừ,
như như lý tác ý.’
‘ Nơi
người nào có như lý tác ý thời hoài nghi không sanh, hoặc nếu đã sanh, nó sẽ
được đoạn trừ.’
Trong sáu pháp dẫn đến sự
đoạn trừ của hoài nghi, ba pháp đầu và hai pháp cuối
giống với những pháp đã đưa
ra trong hôn trầm và thụy miên. Riêng pháp thứ tư được
giải thích như sau :
Có niềm tin vững
chắc nơi Đức Phật
(Buddha), Giáo Pháp (Dhamma), và Chư
Tăng (Shaṇga).
Hành giả có thể
trục xuất được hoài nghi nhờ
sáu pháp này, như cuối cùng chỉ khi hành giả đắc tầng
thánh thứ nhất (Tu-đà-hoàn Đạo) tuyệt diệt
hoài nghi thì nó mới
không khởi lên trong tương lai nữa mà thôi.’
Những
đoạn trích từ Kinh Sa môn Quả (Sāmaññaphala Sutta) của Trường Bộ
Kinh (Dīghā Nikāya ) và Chú giải
Trước
hết tôi sẽ đưa ra đây một
đoạn trích từ kinh Sa môn Quả (Samaññaphala Sutta), ở đây Đức Phật
nói với đức vua A-xà-thế (Ajātasatu) như vầy :
‘ Sau khi đã từ bỏ tham ái đối
với thế gian, vị ấy sống
với tâm không tham ; gột rửa tâm hết
tham ái. Sau khi đã từ bỏ hết sân hận,
vị ấy sống với
tâm quảng đại, cảm thông với
tất cả sự an vui hạnh
phúc của tất cả chúng sinh ; gột
rửa hết tâm sân hận. Sau khi đã từ bỏ hôn trầm
và thụy miên, vị ấy sống
với tưởng ánh sáng, chánh niệm và tỉnh giác ; vị
ấy gột rửa hết
hôn trầm và thụy miên. Sau khi đã từ bỏ hôn trầm
và hối hận, vị ấy
sống thoải mái với chính mình, với
một cái tâm bình lặng ; vị ấy
gột rửa hết trạo
cử và hối hận. Sau khi đã từ
bỏ hoài nghi, vị ấy sống
như người đã thoát bỏ nghi, không lưỡng lự đối
với những thiện pháp ; vị
ấy gột rửa tâm hết
hoài nghi.’
‘ Thưa đại
vương,giả sử có người
đi vay nợ và dùng nó vào
việc kinh doanh của mình, và công việc của anh ta thành công, nhờ thế
anh ta có thể trả hết nợ
cũ và tiền còn lại đủ để
nuôi dưỡng vợ con. Người ấy suy xét về
điều này và nhờ vậy cảm
thấy hài lòng, sung sướng.’
‘ Lại
nữa, thưa đại vương,
giả sử có một người
bị bệnh, ốm đau trầm
trọng, đau đớn, vì thế mà người ấy
không thể thưởng thức các món ăn và sức
khỏe suy yếu. Sau một thời gian người
ấy khỏi bệnh, thưởng
thức được các món ăn và phục hồi thể
lực. Người ấy suy xét về
điều này và nhờ vậy cảm
thấy hài lòng, sung sướng.’
‘ Lại
nữa, thưa đại vương,
giả sử có một người
bị giam trong tù. Sau một thời gian người
ấy được thả ra khỏi
nhà tù, an toàn, an ổn,
không có mất mát tài sản. Người ấy
suy xét về điều này, và nhờ vậy người
ấy cảm thấy hài lòng, sung sướng.’
‘ Lại
nữa, thưa đại vương,
giả sử có một người
bị làm nô lệ, không được tự chủ,
phải phục vụ cho những
người khác, không thể đi nơi nào hắn
muốn. Sau một thời gian, người
ấy được phóng thích khỏi cảnh nô lệ
và lấy lại quyền tự
chủ của mình ; người ấy không còn phải
phục vụ cho những người
khác nữa mà là một con người tự do có thể
đi nơi đâu hắn muốn đi. Người
ấy suy xét về điều này và nhờ
vậy cảm thấy hài lòng, sung sướng.’
‘ Lại
nữa, thưa đại vương,
giả sử một người
mang theo của cải và tài sản đi ngang qua sa mạc. Ở đây, thực
phẩm khan hiếm và những nguy hiểm
lại rất nhiều. Sau một
thời gian, người ấy vượt
qua được sa mạc và về đến
làng an toàn, an ổn,
không có hiểm nguy. Người ấy suy xét về
điều này và nhờ vậy cảm
thấy hài lòng, sung sướng.’
‘ Tương
tự như vậy, thưa
đại vương, khi một vị Tỳ kheo thấy
rằng, năm triền cái này chưa được đoạn
trừ trong tự thân, người ấy xem đó như
một người mang nợ, như người
bệnh, như bị giam hãm trong tù, như kẻ
nô lệ, và như một con đường
nguy hiểm.’
‘ Nhưng khi vị
ấy thấy rằng năm triền
cái này đã được đoạn trừ trong tự
thân, vị ấy xem đó như thoát khỏi nợ nần,
như người lành mạnh, như thoát khỏi
tù tội, như thoát kiếp nô lệ, và như
một nơi an toàn vậy.’
‘ Khi vị ấy
thấy rằng, năm triền cái đã được đoạn trừ
trong tự thân, hân hoan
sanh. Khi vị ấy được hân hoan, hỷ
sanh. Khi tâm vị ấy tràn đầy với hỷ,
thì thân trở nên khinh an
; do thân khinh an, vị ấy cảm nghiệm
được lạc thọ, do lạc,
tâm vị ấy trở nên định
tĩnh.’
‘ Hoàn toàn ly dục, ly các bất thiện pháp, vị
ấy nhập vào và an trú trong sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền, tứ thiền.’
Đến
đây, tôi sẽ đưa ra cho quý vị những trích đoạn
từ chú giải, giải thích những
ví dụ về năm triền cái và sự đoạn trừ
của chúng như đã đề cập
trong các đoạn trên :
Người
đi vay nợ người khác và xài tiêu xài hoang
phí hết món tiền đó thì không thể bảo vệ
được mình khi chủ nợ đến
đòi, họ sẽ nói năng với anh ta một cách khó nghe, hoặc họ sẽ
trói anh ta lại và đánh đập anh ta ; anh ta phải chịu đựng
tất cả những chuyện
này, và món nợ là lý do
anh ta phải chịu đựng nó.
Tương
tự, nếu một người
khởi lên tham dục đối với
người khác và lấy (người ấy
) làm đối tượng của tâm tham, thời
y phải hoàn toàn chịu đựng khi người
ấy nói với y một cách khó nghe, hay khi người đó trói và đánh đập y ; và lòng dục của y là lý do khiến
y phải chịu đựng điều
đó. Một ví dụ là trường hợp
của những người phụ
nữ bị đánh đập bởi
những gia chủ (chồng của
họ). Như vậy tham dục
phải được xem như món nợ.
Một
người, sau khi đã vay nợ, dùng nó vào việc kinh doanh của mình và được thành công. Anh ta nghĩ, ‘
Món nợ này là một trở ngại
chính,’ vì thế anh ta trả hết món nợ
cùng với tiền lời và xé bỏ
giấy hẹn trả nợ.
Từ đó trở đi, không ai gửi giấy báo hay thư
(nhắc anh ta về món nợ) nữa.
Khi anh ta thấy người chủ nợ,
anh ta có thể đứng dậy hay cứ
ngồi yên trên ghế của mình, tùy thích. Tại sao vậy ? Vì anh ta không còn ràng
buộc vào họ, không còn bị lệ thuộc
vào họ nữa. Tương tự,
một vị Tỳ kheo nghĩ, ‘ Tham dục là trở ngại
chính,’ vì thế vị ấy tu tập
sáu pháp và đoạn trừ dục tham triền
cái. Khi vị ấy
đoạn trừ được dục
tham triền cái như vậy, lúc đó cũng như
người thoát nợ, không còn cảm thấy sợ
hãi, lo âu khi nhìn thấy
chủ nợ như thế
nào, vị Tỳ kheo cũng
không cảm thấy dính mắc hay ràng buộc đối với
bất kỳ ngoại cảnh nào như
thế. Cho dù vị ấy có thấy
những hình dáng đẹp tuyệt trần
thì phiền não cũng không
tấn công vị ấy. Do đó, Đức
Thế Tôn mới nói rằng đoạn
trừ dục tham cũng giống như thoát khỏi
nợ nần vậy.
Người
bị khổ sở với
chứng bệnh đau mật, nếu có được
người ta cho những món như mật ong và đường,
anh ta cũng sẽ không thưởng thức được
hương vị của chúng do bệnh
đau mật của mình. Thậm chí anh ta nhổ những món ấy
ra vì nghĩ chúng đắng. Tương tự, nếu
một người với nội
tâm sân hận được vị thầy
có lòng từ mẫn giáo giới dù chỉ qua loa thôi, y cũng sẽ không chấp
nhận lời giáo giới ấy. Thậm
chí còn bác bỏ nó, nói rằng, ‘ Thầy đã áp bức tôi quá nhiều rồi !’ và bỏ
đi. Cũng như người bị khổ
sở vì chứng đau mật không thể thưởng thức
được hương vị mật
ong như thế nào, người bị khổ
sở với sân hận cũng thế,
không thể thưởng thức được
hương vị giáo pháp của Đức Phật,
đó là, lạc của bậc thiền
(Jhāna)... Vì vậy, sân hận phải được
xem như một chứng bệnh.
Một
người khổ sở với
bệnh đau mật biết chế
ngự bệnh ấy bằng
cách uống thuốc. Từ đó trở
đi anh ta thưởng thức được hương
vị của những thứ
như mật ong và đường. Tương tự,
một vị Tỳ kheo (Bikkhu) nghĩ, ‘ Sân
hận là nguyên nhân chính
của tai họa,’ vì thế,vị ấy
tu tập sáu pháp và đoạn trừ được
sân triền cái. Khi vị ấy đã đoạn
trừ được sân hận, thì người khỏi bệnh
đau mật ăn được những thứ
như mật ong hay đường và thích thú với hương vị
của chúng như thế nào, vì Tỳ kheo cũng vậy. Sau khi thành kính tiếp nhận
những học giới như
những công bố liên quan đến cách cư xử (hạnh),
vị ấy học tập
chúng và thích thú chúng. Do đó, Đức
Thế Tôn mới nói rằng sự
đoạn trừ sân hận cũng giống
như được sức khỏe
tốt vậy.
Vào ngày lễ hội,
một người bị nhốt
trong tù không thể thấy được đoạn
đầu, đoạn giữa và đoạn
cuối của lễ hội.
Nếu như hôm sau y được thả ra, và nghe người
ta nói, ‘ Ồ, hôm qua có một lễ hội
thật là vui ! Với những điệu
múa, những bài hát như vậy ! ‘ Y không thể
trả lời gì được. Lý do tại
sao ? Bởi vì bản thân y không có tham dự lễ hội.
Tương tự, nếu một
vị Tỳ kheo bị hôn trầm và thụy
miên áp đảo khi buổi thuyết Pháp (Dhamma) nói về những
pháp môn khác nhau diễn
ra, vị ấy không thể hiểu đoạn
đầu, đoạn giữa và đoạn
cuối của bài Pháp.
Khi buổi thuyết
Pháp chấm dứt, vị ấy
nghe mọi người tán dương thời Pháp, ‘ Ồ,
thật là một thời Pháp tuyệt
diệu ! với những lý lẽ
và những ví dụ như vậy,
như vậy !’ nhưng vị
ấy không thể đưa ra một
câu trả lời. Vì lý do gì ? Vì vị ấy bị
hôn trầm và thụy miên chiến thắng và không thể
thưởng thức được thời
Pháp. Vì thế hôn trầm và thụy miên phải
được xem như bị giam hãm trong tù vậy.
Một
người bị nhốt trong tù vào một
ngày lễ hội. Vào ngày lễ hội sau, y nghĩ, ‘Trước
đây do dễ duôi, ta đã bị nhốt trong tù, và vì vậy
ta không thưởng thức được lễ
hội. Bây giờ ta sẽ thận
trọng lưu ý.’ Như vậy người
ấy trở nên thận trọng,
vì thế mà những kẻ xấu
không có cơ hội (để làm cho y bị
tù). Sau khi thưởng thức lễ hội,
y thốt lên những lời vui sướng,
‘ Ồ, thật là một lễ
hội tuyệt vời ! Ồ,
thật là một lễ hội
tuyệt vời !’ Tương tự,
một vị Tỳ kheo nghĩ, ‘ Hôn trầm và thụy miên là nguyên nhân chính của tai họa,’ vì thế
vị ấy tu tập sáu pháp và đoạn
trừ được thụy miên, thì, như
người thoát khỏi tù tội, thưởng
thức được đoạn đầu,
đoạn giữa và đoạn cuối
của Pháp (Dhamma) và chứng đắc Thánh Đạo
cùng với tứ tuệ phân tích. Do đó, Đức Thế
Tôn mới nói rằng sự đoạn
trừ hôn trầm và thụy miên cũng giống
như thoát khỏi tù tội vậy.
Một
người nô lệ, ngay cả khi vui chơi tại một
lễ hội, cũng có thể bị chủ
nhân sai bảo, ‘Này có
công việc khẩn cấp cho mi làm đây. Hãy đi đến đó nhanh lên ! Nếu
mi không đi, ta sẽ chặt chân,chặt tay mi, ta sẽ cắt tai, cắt
mũi mi đấy !’ Như vậy y phải
nhanh chóng mà đi và không được
thưởng thức đoạn đầu,
đoạn giữa và đoạn cuối
của lễ hội. Vì sao ? Vì y phải
phục tùng cho những người khác vậy.
Tương tự, khi một người
không thiện xảo trong Luật (Vinaya) đi vào rừng sống độc
cư (hành thiền), vị ấy
có thể mắc phải một
giới tội nhỏ nào đó, ngay cả
nhận thịt không được phép (thọ dụng) là thịt
được phép (thọ dụng). Thế
là vị ấy phải từ
bỏ sự độc cư
của mình. Vì sao ? Vì vị ấy bị
trạo cử và hối hận
áp đảo. Như vậy trạo
cử và hối hận phải
được xem như tình trạng nô lệ.
Một
người nô lệ, với sự
giúp đỡ của một người
bạn, đưa tiền cho chủ
nhân của y và giải thoát y khỏi tình trạng nô lệ. Từ
đó trở đi, y có thể làm những gì tùy ý muốn
của y. Tương tự, vị
Tỳ kheo nghĩ, ‘ Trạo cử và hối hận
là nguyên nhân chính của
tai họa,’ vì thế, vì ấy tu tập
sáu pháp và đoạn trừ được trạo
cử và hối hận. Khi vị
ấy đã đoạn trừ được
trạo cử và hối hận,
thì, cũng như người được tự
do có thể làm những gì mình muốn không ai có thể dùng vũ lực ngăn không cho họ làm điều đó, vị
Tỳ kheo cũng vậy, an vui
thực hành giải thoát đạo, và trạo cử và hối
hận không thể dùng sức mạnh
ngăn cản không cho vị ấy làm điều
đó. Vì thế Đức Thế Tôn mới
nói rằng sự đoạn trừ
trạo cử và hối hận
cũng giống như thoát khỏi tình trạng nô lệ vậy.
Một
người đi trên con đường hoang vắng, sau khi đã nhìn thấy nguy cơ do những tay đạo
tặc nhả ra giết người,
trở nên lo lắng và sợ hãi, ngay cả
âm thanh xào xạc của một cành cây hay của
một con chim y cũng nghĩ
rằng, ‘Những tay đạo tặc đã đến
!’ Y đi tới một chút, dừng lại, rồi
xoay lưng. Cứ như thế
suốt cuộc hành trình những chỗ y dừng
nhiều hơn cả những
chỗ y đi. Y về đến nơi
an toàn với đầy lo lắng và khó khăn, hoặc
có thể y hoàn toàn không
về được đến nơi
nữa là khác. Tương tự, nếu
hoài nghi về tám trường hợp đã khởi
lên nơi một người, y sẽ
tiếp tục hoài nghi, không hiểu ‘Bậc Đạo
Sư có Giác Ngộ hay không ?’ và sẽ không thể nào giải quyết
(nghi) và chấp nhận nó với niềm
tin. Do không thể nào quyết nghi và chấp nhận với
niềm tin, người ấy không đạt
đến đạo và chấp nhận
với niềm tin, người ấy không đạt
đến đạo và quả. Như vậy, cũng như
người lữ hành trên hoang lộ, hoài nghi không biết co những tay đạo
tặc hay không, cứ liên tục nổi
lên tình trạng lưỡng lự và do dự,
thiếu niềm tin và hoảng sợ, tạo
ra một chướng ngại trong việc
đi đến nơi an toàn của anh ta thế nào, vị Tỳ kheo cũng vậy,
do hoài nghi không biết Đạo Sư có phải
là một Bậc Giác Ngộ hay không, cứ liên tục khơi
dậy tình trạng lưỡng lựvà
do dự, thiếu niềm tin và hoảng
sợ, tạo ra một chướng
ngại trong việc đi đến Thánh cảnh
của mình (cảnh giới của
Bậc Thánh). Như vậy, hoài nghi phải
được xem như một con đường
hoang vắng.
Một
người khỏe mạnh, sau khi đã cầm
những vật có giá trị lớn trong tay, có thể
du hành qua sa mạc, võ
trang đầy đủ cùng với đoàn tùy tùng của
mình. Bọn đạo tắc thấy
người ấy từ xa cũng sẽ
bỏ chạy. Sau khi vượt qua sa mạc và đến một
nơi an toàn, y sẽ vô cùng sung sướng và hồ hởi. Tương
tự, vị Tỳ kheo nghĩ, ‘ Hoài nghi
chính là nguyên nhân chính của
tai họa,’ vì thế, vị ấy
tu tập sáu pháp và đoạn trừ hoài nghi triền
cái. Khi vị
ấy đã đoạn trừ được
hoài nghi, thì, như người đàn ông khỏe mạnh võ trang đầy
đủ cùng với những tùy tùng của
mình, không sợ hãi, và
xem những tên đạo tặc kia không hơn
cỏ rác, an toàn đi trong
sa mạc và đến một nơi
an toàn, vị Tỳ kheo cũng
vậy, vượt qua sa mạc tà hạnh đến
nơi an toàn tối thượng, tức
sự bất tử hay Niết
Bàn. Do đó, Đức Thế Tôn mới nói rằng
sự đoạn trừ hoài nghi cũng giống
như một nơi an toàn vậy.
Đoạn
từ sự đoạn trừ
tham cho đến cảm nghiệm lạc
thọ bởi một người
có sự yên tịnh nơi thân được
nói là thuộc về sự tu tập
chuẩn bị định, chứ
không phải tu tập an chỉ định.
Nhưng trong trường hợp khi mà tâm của
một người có lạc trở
thành định, thì cả chuẩn bị
định và an chỉ định được
nói tới, vì lạc là nhân gần cho định cũng như
sự tu tập cận hành (định),
và bởi vì an chỉ của sơ
thiền v.v... được thành tựu nhờ (phương
tiện) tương quan nhân và quả. Nói khác hơn, giống như
lạc của giai đoạn chuẩn bị,
lạc của an chỉ cũng là nhân cho an chỉ định
vậy.
Mặc
dù năm triền cái có thể được đè nén bằng
Jhāna (bậc thiền) và đoạn trừ tạm
thời bằng tuệ Minh Sát (Vipassanā), song nếu chúhg chưa được bứng
gốc bằng đạo tuệ,
chắc chắn chúng sẽ khởi lên trở
lại trong tương lai. Nói khác hơn khi quý vị mất Jhāna (thiền)
và tuệ Minh sát, các loại tai họa khác nhau có thể
xảy đến cho quý vị.
Đây là sự chú thích từ
chú giải
Đừng
dừng lại khi chưa đến đích
Mặc
dù năm triền cái có thể được đè nén bằng
Jhāna (bậc thiền) và đoạn trừ tạm
thời bằng tuệ Minh Sát (Vipassanā), song nếu chúhg chưa được bứng
gốc bằng đạo tuệ,
chắc chắn chúng sẽ khởi lên trở
lại trong tương lai. Nói khác hơn khi quý vị mất Jhāna (thiền)
và tuệ Minh sát, các loại tai họa khác nhau có thể
xảy đến cho quý vị. Để chứng
minh tầm quan trọng của việc
nổ lực liên tục cho đến khi đạt
đến thánh đạo thánh quả, tôi sẽ liên hệ
ở đây một câu chuyện được ghi lại
trong Sammoha-vidodanī, chú giải
Vibhaṇga (Bộ Phân Tích, một trong bảy bộ sách của
Tạng Diệu Pháp) :
Một
vị trưởng lão nọ là bậc đã đoạn
tận các lậu hoặc (ám chỉ
một bậc Alahán) nghĩ đến việc đi đảnh
lễ tại ngôi Đại Điện ( thờ
Xá-lợi Đức Phật) và cây Đại
thọ Bồ đề ( tại
Anrādhapurā). Tháp tùng ngài là một
vị Sa di có các thiền chứng phục
vụ như một thị
giả, vì ngài từ một vùng quê đến
ngôi Đại Tự này. Khi Tăng chúng đi đảnh lễ ngôi Đại
Điện chiều hôm ấy, ngài không đi theo họ (để
đảnh lễ). Vì sao ? Vì những vị đã đoạn
tận lậu hoặc tin Tam Bảo
là rất thiêng liêng. Do
đó, khi Tăng chúng đảnh lễ xong và trở về, vào cái giờ
mà mọi người đang ăn bữa tối, ngài ra đi một
mình không thông báo cho vị
Sa-di, với ý định đảnh lễ
ngôi Đại điện.
Vị
Sa-di nghĩ, ‘ Tại sao Trưởng lão lại ra đi ngoài một mình vào cái giờ bất thường
như thế này ? Ta sẽ khám phá xem’. Và vị ấy đi ra ngoài, lần
theo những bước chân của thầy tế
độ [1]. Không hay biết sự hiện
diện của Sa-di do không tác ý [2], vị Trưởng lão đi lên và vào trong khuôn viên của ngôi Đại Điện bằng
cổng nam. Vị Sa-di, theo dấu chân ngài, cũng đi lên. Khi
vị Trưởng lão nhìn đăm đăm vào ngôi
Đại Điện, ngài cảm thấy say mê với
hình ảnh Đấng Giác Ngộ kể như
đối tượng và, tập trung toàn tâm toàn ý của mình, ngài đảnh lễ ngôi Đại
Điện với niềm hỷ
lạc vô biên. Nhìn thấy ngài đảnh lễ, vị
Sa-di nghĩ, ‘ Thầy tế độ của
ta đảnh lễ với lòng tràn đầy
niềm hoan hỷ. Nếu như
ngài có những bông hoa và
dâng lên cúng dường thì
sao nhỉ ?’
Chú thích : [1] Thầy tế độ
là thầy cho xuất gia và dạy dỗ đệ
tử
[2] Ở đây cần
hiểu, mặc dù là một bậc Alahán, ngài có đủ
khả năng để biết chuyện
này, nhưng do không sử dụng trí (để
tác ý) nên ngài không biết
mà thôi.
Sau khi đảnh lễ
xong, vị Trưởng lão đứng dậy và với
hai tay chắp lại với nhau ở
trên đầu nhìn vào ngôi Đại Điện. Vị
Sa di đằng hắng cho ngài biết có sự hiện
diện của mình. Vị Trưởng lão quay lại
nhìn chú và hỏi :
‘Ngươi
đến khi nào ?’
‘ Khi ngài đang đảnh lễ ngôi Đại
Điện, bạch Trưởng lão. Ngài đã đảnh
lễ ngôi điện thờ với
niềm hoan hỷ vô cùng tận. Nếu như
ngài có những bông hoa để dâng lên cúng dường thì sao ạ?’
‘ Đúng vậy, này Sa-di. Không ở nơi
nào khác tập trung được nhiều xá lợi
như ở ngôi điện thờ này. Ở
một nơi tưởng niệm
vĩ đại không đâu sánh bằng như thế,
nếu có hương hoa ai lại không muốn dâng lên cúng dường chứ ?’
Vị
Sa-di nói, ‘ Hãy chờ, bạch Trưởng lão, con sẽ
trở lại.’
Nói như thế
xong vị ấy nhập thiền
(Jhāna) và, bằng năng lực thần thông của
mình, bay đến Hy-mã-lạp-sơn (Himalayas),vị
ấy bỏ đầy túi lọc
nước [1] của mình những bông hoa thơm, sắc màu tươi
đẹp nhất. Và khi vị Trưởng lão đến
được cổng tây của ngôi điện thờ từ
cổng nam, vị Sa-di đã đặt túi lọc nước
đựng đầy hoa ấy vào tay ngài và nói :
‘ Bạch
Trưởng lão, hãy dâng lên
cúng dường.’
Trưởng
lão nói :
‘ Những bông hoa này dường
như quá ít, có phải vậy không ?’
‘ Cứ
đi, bạch Trưởng lão, và khi cúng dường hoa hãy quán tưởng đến những
ân đức của Bậc Giác Ngộ.’
Chú thích : [1] Túi lọc nước : Một
túi vải như cái túi lọc café, được dùng để lọc nước
uống ( một trong tám vật dụng của
vị Tỳ kheo)
Vị
Trưởng lão đi lên bằng cầu thang của
cổng tây và bắt đầu cúng dường
hoa trên sân thượng của hàng rào chấn song bên trong. Sân thượng đầy hoa. Những
bông hoa rơi xuống tầng hai ngập
lên đến gối. Từ đó đi xuống,ngài
cúng dường hoa tại chân hành lang. Nơi đó cũng đầy hoa. Thấy hoa đã đầy, ngài đi xuống và rắc hoa trên nền
đất ở phía dưới. Trưởng
lão đã rắc đầy cả khuôn viên điện
thờ. Khi tất cả đã đầy,
ngài nói :
‘ Này Sa-di, hoa vẫn chưa hết.’
‘Hãy lộn ngược
túi lọc lại, bạch Trưởng
lão.’
Lộn
ngược xong, ngài lắc lắc cái túi và những
bông hoa đã hết. Trưởng lão đưa cái túi lọc nước lại
cho vị Sa di và đi nhiễu quanh điện thờ cùng với
Bức Tường Voi ba vòng về phía bên phải và đảnh lễ
tại bốn cửa điện.
Trên đường trở về phòng, ngài nghĩ, ‘Sa-di này thật là có năng khiếu về thần
thông ! Liệu y có thể giữ gìn được
những năng lực thần thông ấy
không ?’(Và bằng khả năng của mình) ngài thấy
rằng y không thể.
Trưởng
lão bèn nói với Sa-di :
‘ Này Sa-di, hiện tại ông rất
mạnh với những năng lực
thần thông. Nhưng sau này, khi mà những năng lực đó mất đi, ông sẽ
húp cháo gạo bóp bằng tay của một cô gái thợ
dệt mù đấy !’
Chính do sự nông nổi
của tuổi trẻ mà vị
Sa-di đã không bị động tâm bởi những lời
nói của thầy tế độ
mà còn yêu cầu ngài :
‘ Hãy giải thích cho con một
đề tài thiền đi, bạch Trưởng
lão.’ Và y bỏ đi như thể không nghe thấy
gì, nghĩ rằng, ‘ Thầy tế độ
của ta đang nói cái gì thế nhỉ ?’
Sau khi đảnh lễ
tại ngôi Đại Điện và Đại
thọ Bồ đề xong, vị
Trưởng lão bảo Sa-di cầm lấy bát và y (tăng- già- lê) của mình, và đúng thời họ đi đến
Đại Tự Kutelitissa.
Vị
Sa-di không đi khất thực theo thầy ; mà sau khi hỏi, ‘ Bạch Trưởng
lão, ngài sẽ đi làng nào
?’
Khi y biết thầy
tế độ của mình đã đi đến
tại cổng làng, y cầm lấy y bát của
mình cũng như y bát của vị Trưởng
lão và, phi hành bằng đường hư không, y đưa
y và bát cho vị Trưởng lão rồi đi vào làng khất thực.
Mỗi
lần như vậy, vị
Trưởng lão đều cảnh báo, ‘ Này Sa-di, chớ có hành động
như vậy. Thần thông của
hàng phàm nhân (người chưa đắc Thánh) không bền
đâu ; chỉ cần lấy một
cảnh sắc không thích hợp làm đối tượng
chúng lập tức đứt ngay đấy.
Và sau khi mất một thiền chứng,
người ta không thể tiếp tục
an trú vững chắc trong đời phạm hạnh
được đâu.’ Nhưng vị Sa-di nghĩ, ‘ Thầy
tế độ ta đang nói cái gì vậy ?’ và y không muốn nghe. Y vẫn tiếp tục
làm như trước.
Đảnh
lễ những ngôi tháp thờ xá lợi tại
Đại Tự Kutelitissa xong, đúng thời, Trưởng lão đi đến
Đại Tự Kupavena. Trong khi vị Trưởng lão trú ở
đó, vị Sa-di tiếp tục sử
dụng thần thông như trước. Thế
rồi một hôm cô con gái xinh đẹp của người
thợ dệt , đang độ tuổi thanh xuân đi ra khỏi làng Kupavena, và cô đi xuống hồ sen để
hái những bông hoa sen ở đó, vừa làm vừa
hát (như cô vẫn từng làm). Nhưng
đúng vào lúc đó vị Sa di
bay ngang (qua hư không)
trên hồ sen, và, giống như người
đánh cá mù trong cái sàng !? Y bị
tóm chặt trong tiếng hát của cô. Lập tức
những năng lực thần thông của
y biến mất và y (rơi) không khác một con quạ bị cắt
cánh. Tuy nhiên nhờ thiền chứng, y không đến
nỗi rơi thẳng xuống
nước, mà giống như một
hạt bông chìm từ từ, y dạt
vào nghỉ trên bờ hồ sen.
Nhanh chân, y chạy đưa y bát cho thầy
tế độ và quay trở lại. Vị
Trưởng lão (nghĩ) ‘ Thật đúng như ta đã đoán trước ; nếu y bị
chướng ngại, y sẽ không quay trở
lại.’ Vị Trưởng lão không nói gì và lặng lẽ
đi vào làng khất thực.
Vị
Sa-di quay trở lại và đứng trên bờ
hồ sen chờ cô gái lội lên khỏi nước. Cô gái đã thấy
vị Sa-di bay qua hư không và [ bây giờ ] y đã quay trở lại và đang chờ,
cô biết chắc chắn là vì cô mà y đã trở nên bất
mãn ‘Xin lui lại bạch Sa-di,’ cô nói. Y làm theo
như vậy. Cô bước lên khỏi
nước và, sau khi đã mặc quần áo, đi đến
chỗ y. ‘ Có chuyện gì thế, bạch
ngài ?’ cô hỏi.
Vị
Sa-di kể lại sự tình của
mình. Với nhiều lý lẽ cô gái chỉ
ra cho thấy những nguy hiểm của đời
sống gia đình và những lợi ích của
đời phạm hạnh [nhưng]
dù hết lời dỗ dành cô vẫn
không thể nào xua tan được sự bất
mãn của y. [ Suy nghĩ] ‘
Chính vì ta mà y đã mất
những năng lực thần thông ; bỏ
y lúc này thật là không
phải,’ cô bèn nói y đứng chờ ở
đó. Cô chạy về nhà và nói tất cả những
gì đã xảy ra. Họ cùng đi đến và, mặc dù đã cảnh
báo y bằng nhiều cách, song vì y không chú ý
đến những lời họ
nói : ‘ Chớ có xem chúng
tôi là một gia đình sang
cả, chúng tôi chỉ là những người
thợ dệt. Liệu anh có thể
làm công việc của người thợ
dệt được không ?’
Vị
Sa-di nói, ‘ Này cư sĩ, nếu tôi trở thành một người tại
gia tôi sẽ làm công việc của người
thợ dệt hay công việc của người
đan rổ rá cũng được. Có gì nào ? Chớ có miễn cưỡng
tôi một miếng vải [ để
tôi mặc như người tại
gia cư sĩ ].’
Sau khi đưa cho y một
miếng vải để quấn
quanh hông, người thợ dệt đưa
y về nhà và gả con gái cho y. Học xong nghề dệt, y làm việc
trong gian phòng lớn cùng
với những người thợ
dệt khác. Vợ của những
người khác lo chuẩn bị bữa
ăn từ sáng sơm và mang nó đến gian phòng lớn. Còn vợ của y không đến
liền. Trong khi những người khác ngưng
công việc để ăn cơm, y phải
ngồi rầu rĩ với con thoi.
Cuối
cùng thì vợ y cũng đến. Y trách vợ, ‘ Cô làm gì mà lâu thế mới đến
!’
Và khi những người
phụ nữ biết rằng
tâm [ của một người đàn ông ] rất
quan tâm đến họ, họ thường
đối xử với y như
kẻ nô lệ, cho dù y có là một vị Chuyển
Luân Vương chăng nữa.
Vì thế mà cô vợ
trả lời như vầy,
‘ Ở nhà người khác, rau củi, mắm muối
và các thứ đồ ăn có sẵn, vả lại
còn có người giúp việc cũng như tôi tớ từ
ở ngoài đến nữa. Còn tôi thì chỉ
có một mình. Anh không biết trong nhà anh cái gì có, cái
gì không. Nếu anh muốn ăn thì ăn, còn không muốn ăn thì đừng
ăn, vậy thôi.’
Y nói, ‘ Chẳng những trưa
trầy trưa trật cô mới
mang cơm đến mà lại còn nói với
tôi bằng những lời xúc phạm
như thế hả ! ‘
Và thế là nổi
cơn thịnh nộ, không tìm ra cái gì để đánh cô vợ,
y kéo cái cán con thoi ra khỏi
con thoi và ném nó [ vào cô ta ]. Thấy
nó bay tới, cô xoay người tránh. Vì đầu cán con thoi rất bén nên nó đâm vào đuôi mắt của cô ta và cắm
chặt ở đó. Lập tức
cô đưa hai tay lên bưng mắt. Máu tuôn ra từ
vết thương.
Ngay giây phút ấy, y nhớ đến
lời nói của thầy tế
độ. Thế là y bắt đầu
khóc rống lên trong tiếng nức nở
: ‘ Chính vì điều này mà
thầy tế độ ta nói, "Trong tương lai sắp
tới ông sẽ húp cháo gạo bóp bằng tay của
cô gái thợ dệt mù đây sao." Bây giờ những gì ngài tiên đoán đã trở thành sự
thực. Ôi, ngài thấy xa biết chừng
nào ! Than ôi !
Nghe thế những
người kia nói :
‘ Thôi đủ rồi
này ông bạn, đừng có khóc nữa. Có khóc con mắt hư cũng không lành lại
được.’
Y nói, ‘ Tôi không khóc vì lý do
đó. Mà tôi khóc vì điều
này [điều của thầy tế
độ tôi nói]’. Và y kể lại cho mọi
người biết những gì đã xảy
ra.’
Từ
câu chuyện trên chúng ta
biết rằng ngưng hành thiền
chỉ và thền Minh Sát (Vipassanā) sẽ dẫn đến
tai họa như vậy. Và quý vị
không nên theo tấm gương đáng thương này mà hãy cố gắng thực
hành liên tục cho đến khi quý vị đạt đến
thánh đạo và thánh quả mới thôi.
Sống
theo Pháp
Có lẽ sẽ
thích hợp để tôi chấm dứt
bài giảng ở đây với bài Kinh được
gọi là ‘ Sống theo Pháp (Dhamma)’ trong
Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh ) :
Lúc bấy giờ
một vị Tỳ kheo đến thăm viếng Đức Thế
Tôn, sau khi đến vị ấy đảnh
lễ Đức Thế Tôn, đản
lễ xong vị ấy ngồi
xuống một bên. Ngồi xong, vị ấy nói với
Ngài như sau :
‘ Bạch
Thế Tôn, người ta nói : Sống theo Pháp, sống theo Pháp ! Bạch Thế Tôn, một
vị Tỳ kheo sống theo Pháp là thế nào ?’
‘ Này Tỳ kheo, hãy suy xét, một vị Tỳ kheo tinh thông Pháp (Dhamma) : Khế kinh, Ứng tụng,
Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như
thị thuyết, Bổn sanh, Vị
tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng- vị
ấy dành trọn cả ngày để
học Pháp (Dhamma) ; bỏ phế cuộc
sống độc cư (để
hành thiền) và không nổ lực để
an tịnh tự thân. Này Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng tinh
thông kinh điển, nhưng không sống theo Pháp.
‘ Lại
nữa. này Tỳ kheo, hãy suy
xét vị Tỳ kheo dạy Pháp cho người khác một cách chi tiết như vậy
ấy được nghe, như vị ấy
đã được học – vị ấy
dành trọn cả ngày để thuyết
phục những người khác về
Pháp ; bỏ phế sống độc
cư (để hành thiền) và không nổ lực để
an tịnh tự thân. Này Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng thuyết phục, nhưng
không sống theo
Pháp.
‘ Lại
nữa. này Tỳ kheo, hãy suy
xét vị Tỳ kheo, hãy suy
xét vị Tỳ kheo lập lại đầy
đủ Pháp, như vị ấy
đã được nghe, như vị ấy
đã được học nó – vị ấy dành trọn
cả ngày để lập đi lập
lại Pháp ; bỏ phế sống
độc cư (để hành thiền)
và không nổ lực để an tịnh
tự thân. Này Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng lập lại Pháp, nhưng
không sống theo Pháp.
‘ Nhưng, này Tỳ kheo, lấy
trường hợp vị Tỳ kheo tinh thông Pháp (Dhamma) : Khế kinh, Ứng tụng,
Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như
thị thuyết, Bổn sanh, Vị
tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng- vị
ấy dành trọn cả ngày để
học thuộc lòng Dhamma ; không bỏ phế sống
độc cư (để hành thiền)
và nổ lực để an tịnh
tự thân. Này Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đó được nói là người sống theo Pháp.
‘ Này Tỳ kheo, thực sự như
vậy Ta đã nói về vị nhanh chóng tinh thông, vị nhanh chóng thuyết
phục, vị nhanh chóng lập lại, vị
nhanh chóng tư duy, và vị sống theo Pháp.
‘ Này, Tỳ kheo, những gì một vị
đạo sư cần phải
làm cho các đệ tử vì sự tốt
đẹp của họ, những
điều ấy Như Lai đã làm xuất
phát từ lòng bi mẫn, từ lòng thương
xót đối với họ. Này Tỳ kheo (hãy nhìn ) đây là những gốc cây, đây là những
ngôi nhà trống. Này, Tỳ
kheo hãy hành thiền, chớ có phóng dật ; chớ để
tự trách mình về sau. Đây là lời giáo giới của Ta cho ông.’
Trên đây là những gì Đức Phật
nói trong bài kinh gọi là
Sống theo Pháp (Dhamma)’
Cầu
chúc quý vị hành thiền thật chuyên cần
và sống đúng theo Pháp.
No comments:
Post a Comment